Hồn ma trong bệnh viện

06:23 |
Mời bạn đọc truyện ma kinh dị có thật ”Hồn ma trong bệnh viện” những oan hồn vẫn chưa được siêu thoát, hãi hùng khi chứng kiến tận mắt.

- Em tủi thân, vì em đã chết rồi.


- Em đừng có nói bậy, mặt mũi đẹp đẽ như vầy thì chết làm sao được.

- Em biết là nói ra anh hổng có tin, em chết đã 3 hôm rồi, nhưng vì chưa đúng hạn kỳ nên hồn em vẫn còn vất vưởng lẩn quẩn quanh đây. Vả lại em cũng muốn gặp anh, để trả chút ơn anh chăm sóc em khi xưa.

***


PHẦN 1. Hồn ma trong bệnh viện


Từ hồi còn nhỏ tôi đã vốn ghét các chuyện ma, vì tôi nghĩ rằng người ta chỉ bịa đặt các chuyện ma để hù những kẻ yếu bóng vía hoặc đàn bà con nít mà thôi. Với tôi thì làm gì có ma, nhất là hồi nhỏ tôi vốn là một đứa trẻ rất ngỗ nghịch, hay phá làng phá xóm, cho nên tôi còn bày đặt ra nhiều cách nhát ma cho thiên hạ sợ mà lấy làm thích thú nữa kìa.

Thí dụ như hồi lúc tôi mới có 10 tuổi thôi, là tôi đã nhát ma hàng xóm rồi. Tôi còn nhớ rõ hình ảnh lúc đó lắm. Khi đó ở xéo xéo bên tay trái nhà tôi có một con hẻm khá lớn nhiều người thường qua lại, đầu hẻm có một cây nhào to lắm, trái chín trông giống như trái ổi trăng trắng dài dài ăn rất thơm và ngon. Thấy tôi thường trèo lên cây nhào vừa tập làm Tarzan vừa lén hái trái ăn, bà Tư hàng xóm hù tôi là cây nhào này có ma thường hiện ra chọc phá người ta vào ban đêm để cho tôi sợ mà đừng leo lên nữa. Không dè bà gãi đúng chỗ ngứa, thế là tôi nghĩ ra cách làm ma để nhát thiên hạ ngay.

Tối đó tôi đổ một ít nước vào trong cái bong bóng màu trắng cho nằng nặng, xong rồi phồng má thổi cho nó căng lên, buộc chặt lại, kế đó tôi cắt vài sợi giấy báo dài độ nửa thước, cột vào đuôi bong bóng cho nó trở thành 1 cái đuôi dài lòng thòng, sau đó thì tôi cột vào 1 sợi chỉ đen thật dài, chờ lúc trời thật tối, tôi ôm cái bong bóng đó trèo lên cây nhào cành lá chằng chịt, gió reo vi vút giữa đêm tối mênh mông; nhưng nhằm nhò gì, dễ quá mà, cành nhào nào mà tôi không thuộc nằm lòng, leo trèo mỗi ngày mà. Tôi máng cái bong bóng lên 1 cành nhào cao, xong rồi nối sợi chỉ đen dài xuống đất, căng ngang con hẻm, hy vọng người nào đó đi ngang qua sẽ đá vào sợi chỉ làm đứt dây, cho bong bóng rơi xuống. Tôi nhẹ nhàng trở về căn gác đàng trước nhà, cuốn tròn người trong cái mền mỏng, nằm im lìm, thích thú, nín thở rình xem.

Trời đêm đó không trăng, vài ánh sao le lói tít tận trời cao không thể nào mang ánh sáng đến chỗ này được. Con hẻm khi đó tối lắm, một vài ngọn đèn dầu leo lét bên khung cửa sổ nghèo của mấy căn nhà hàng xóm, không những chẳng soi sáng được lối đi mà còn làm cho khung cảnh trở thành âm u ma quái dễ sợ. Thỉnh thoảng từng cơn gió thốc ùa qua, làm cho cành lá run rẩy, tạo nên những tiếng thì thào như những lời oán than rên rỉ từ cõi u minh xa thẳm vọng về.

Chừng độ nửa tiếng đồng hồ sau đó, từ căn gác trong nhà, tôi nín thở nhìn ra đường hồi hộp chờ đợi vì thấy chị Thu Tàn với anh Thái Ðức, nhà ở trong đường hẻm đi chơi khuya đang về gần tới. Hai người này thì bồ với nhau khắn khít lắm, chị Thu Tàn thì nhờ nước da bánh ít trần, thân hình gầy gò ốm yếu như lá úa mùa thu nên trông khá đẹp, nhưng anh Thái Ðức thì mặt mụn, tóc rối bù xù coi có vẻ du côn và thường bắt nạt lũ con nít chúng tôi. Tôi thấy anh Thái Ðức vừa đi vừa khua tay múa chân có lẽ đang tưởng tượng ra mình là một vị anh hùng nào đó để lấy le với người đẹp. Khi hai người đi ngang qua đường hẻm, chân đá vào sợi chỉ làm đứt sợi chỉ, một tiếng ‘Phụp” khô khan vang lên trong đêm tối, quả bong bóng trắng lù lù hiện ra giữa trời khuya từ trên cành nhào lao xuống, lạng qua lạng lại, kéo theo những sợi giấy báo dài phất phơ, đập vào nhau kêu lẹt xẹt, quờ quạng như những bàn tay ma quái chờn vờn, dang ra muốn chộp lấy hai người.

Tôi thấy anh Thái Ðức im lặng không nói một lời, lập tức co giò lên cổ, bỏ người yêu chạy trối chết hòng cứu lấy thân, đôi giày mới tinh bóng lưỡng, mua hồi tuần trước, đạp bừa lên mấy cái vũng sình trong con hẻm nghe sình sịch, như tiếng đề ba của đạn pháo kích, phá tan cái tĩnh mịch của đêm trường. Còn chị Thu Tàn thì la bài hải như bị ma rượt, vừa chạy theo anh Thái Ðức vào sâu trong bóng đêm của con hẻm mà trong lòng vừa nguyền rủa người tình bội bạc, mặt mày coi cô hồn mà trong lòng thì nhát như thỏ đế, khi ôm ấp mình trong tay thì hứa hẹn chăm lo bảo bọc đủ điều, đến chừng gặp hoạn nạn thì vội vàng vất người yêu bé bỏng lại làm con vật tế thần, còn mình thì vắt giò lên cổ lo chạy thoát thân. Tôi thì cười đến đau bụng, nhưng cố nín không dám phát ra thành tiếng, vài phút sau tôi len lén chạy ra tìm cái bong bóng đem về xì hơi ra cất lên.

Câu chuyện anh Thái Ðức với chị Thu Tàn bị ma từ trên cây nhào nhảy xuống bắt được đồn rùm lên, từ đó ngoài tôi ra không ai dám đi ban đêm một mình ngang qua cây nhào thần kỳ bí hiểm đó nữa. Mấy tuần sau tôi thấy có một cái bàn thờ màu đỏ nho nhỏ đặt ở dưới gốc cây nhào, chiều chiều bà Tư còn ra đó cắm nhang và lâm râm khấn vái vị thần hay con ma dữ đêm đó nhớ về phò hộ cho bà sống thêm vài chục năm nữa để chăm lo cúng kiếng cho ngài.

thần linh

Ðến khi lớn tôi phải lên Sài Gòn học, ở trọ tại nhà ông dượng bà cô ở gần sân banh Cộng Hòa. Ông dượng tôi có một cô cháu họ xa mướn từ dưới quê lên giúp việc nhà, tên là Oanh, cô này chừng 16, 17 tuổi, mặt tròn tròn, tóc đen nhánh, xỏa dài xuống tới giữa lưng, hai má lúm đồng tiền khi cười trông rất có duyên. Hôm đó cả nhà đi coi hát cải lương, chỉ có tôi và con Oanh ở nhà. Tôi ngồi bên chiếc bàn cạnh cửa sổ trên gác để học bài thi, học hoài không vô, chán quá bèn nghĩ đến trò giải trí.

Biết con Oanh sợ ma nên tôi nghĩ ra cách làm ma nhát nó chơi. Tôi bèn lấy một khúc cây tròn nhỏ, dài độ 2 thước, đặt nằm giữa cái mùng trắng, trong cái mùng tôi để cái gối trắng, cột cái gối vào giữa khúc cây có cái mùng trắng trùm kín lại; khi khúc cây này được nâng lên thì nó kéo theo cái mùng trắng trông như 1 người khổng lồ mặc áo trắng toát đang dang hai tay ra, có cái đầu to tướng làm bằng cái gối lắc lư hung dữ. Sau đó tôi lấy một sợi dây thật dài cột khúc cây có cái mùng, luồn qua cái khoen tròn có sẵn trên cây đà giữa nhà, kéo dài qua bên góc bàn là chỗ tôi núp trong đó, xong tôi tắt hết đèn chỉ để lại một bóng mờ mờ, ảo ảo. Thỉnh thoảng tôi lấy vài món đồ thẩy lên cho nó rớt xuống sàn gỗ phát thành những tiếng kêu lộp cộp bất thường. Thế là con Oanh phải tò mò lên gác xem coi cái gì.

Khi thấy nó bước lên khỏi thang lầu thì tôi kéo mạnh sợi dây, khúc cây kéo cái mùng bay lên nóc nhà như một bóng ma trắng dang hai tay dài ra chợt như muốn bóp cổ nó, thêm vào đó cái đầu to tướng đang trùm vải trắng toát của con ma lắc lư trông thật dễ sợ, như muốn ăn tươi nuốt sống nó. Trong cái ánh sáng lờ mờ của đêm tối, thì cái mùng y hệt như một con ma dữ trong các truyện kinh dị hiện về. Thế là tôi nghe nó té cái đụp, cũng may là sàn nhà bằng gỗ, nên không bị bể đầu, gãy tay gì, nhưng nó nằm im lìm không còn nhúc nhích cục cựa gì hết. Bật đèn lên thì thấy nó nằm dài như một thây ma, mặt trắng bệch, mấy sợi tóc rối đen dài che ngang mặt như người đã chết làm cho hồn vía tôi lên mây, chưa kịp cười được một tiếng nào cả. Eo ôi! con Oanh mà có bề gì thì đời tôi sẽ đi vào ngõ cụt từ đây, vì ông dượng tôi đâu có tha cho cái tội tày trời này.

Tôi lồm cồm ngồi xuống, thò tay nâng đầu nó dậy, cả người nó mềm như cọng bún làm tôi càng sợ nó chết, tôi nâng tay để đầu nó nằm trên đùi tôi, bao nhiêu lần học CPR về hồi sinh cấp cứu ở mấy khóa huấn luyện Quân Sự Học Ðường và ở trường Y Khoa hiện ra như chớp trong đầu tôi, nhất định là phải mang hết tài học của mình ra để cứu một mạng người (… đồng thời cũng cứu luôn mạng mình). Vừa mới cúi xuống định thổi hơi vào miệng cho nó sống lại, nhưng nhìn thấy đôi môi đo đỏ he hé mở như đóa hoa hồng, còn cặp mắt thì nhắm nghiền như say ngủ, ngực nó im lìm không động đậy, nếu có còn thở thì rất ư là nhẹ, tim tôi đập thình thịch như người mới chạy bộ 100 cây số trở về, tôi sợ lắm, sợ vì nó có thể chết nếu không cứu kịp, run vì biết rằng tôi không thể nào làm CPR trên cái môi hồng hé hé như nụ hoa non này được.

PHẦN 2

Càng lớn lên, kỹ thuật nhát ma của tôi càng tinh vi, càng y như thật, nếu không vì khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo này, thì tôi kể ra thêm 10 trang nữa cũng chưa hết, mà chuyện nào cũng đều hấp dẫn, chuyện nào cũng rất là rùng rợn.

Nhưng… gieo nhân thì có ngày gặt quả, nhát ma người ta cho đã, đến phiên mình thì gặp ma thật. Tôi còn nhớ đêm đó tôi trực tại bệnh viện Hồng Bàng…

Trước khi đến bệnh viện Hồng Bàng tôi đã nghe các đàn anh nói là bệnh viện này có nhiều ma lắm. Tôi cũng đã đọc nhiều truyện ma của các bác sĩ đi trước viết từ trong bệnh viện này. Nhưng tôi chỉ mỉm cười, nhún vai, trong bụng nói rằng chỉ có tôi mới nhát ma người ta thôi, chớ ma nào mà dám nhát tôi. Nếu mà có ma thật như trong những truyện Liêu Trai Kỳ Dị thì tôi càng mong được gặp vì ít ra đời mình cũng còn có được những ngày vàng son rực rỡ bên cạnh những con ma duyên dáng xinh đẹp hiện ra chăm sóc cho mình vài hôm như trong những truyện kinh dị đó, rồi sau đó có lên thiên đàng luôn cũng được.

Bệnh viện Hồng Bàng chuyên về bệnh lao phổi, nằm ở góc đại lộ Hồng Bàng và đường Triệu Ðà. Bệnh viện rất rộng có nhiều dãy trại bệnh, mái lợp ngói đỏ cũ kỹ, 1 hoặc 2 tầng âm u lạnh lẽo cất theo kiểu Tây từ hồi Pháp còn cai trị ở VN, chỉ có 1 khu ở cuối bệnh viện mới cất sau này là rất khang trang, trang bị đầy đủ tiện nghi cho cả 4 tầng lầu sạch sẽ, lầu 2 dành cho sinh viên của các trường đại học ở Sài Gòn đến chữa bệnh, có cái cầu thang rộng rãi ngăn đôi, bên phải là khu sinh viên nam, bên trái là khu sinh viên nữ

Trong bệnh viện có những lối đi bộ quanh co ngoằn ngoèo, nối từ trại bệnh này sang trại bệnh khác, bề ngang độ hơn 2 thước, nơi thì tráng nhựa, nơi thì trải đá mịn, nhưng tất cả đều loang lở vì không được tu bổ lâu ngày. Hai bên những con đường nho nhỏ quanh co này là những cây còng to lớn, có cây lớn đến đổi 2 người ôm không hết, cành lá xum xê, dày đặc, che kín lối đi, ngay cả ban ngày mà cũng đã thấy rờn rợn, lạnh lẽo, âm u. Ðây đó có những lùm bụi cao độ 1, 2 thước chen chúc nhau đủ thứ lá to lá nhỏ, lá dài lá ngắn, xanh đậm xanh lợt mọc vô trật tự… như cố tình che dấu các khu trại bệnh với tường quét vôi vàng ẩn hiện ở xa xa. Xung quanh bệnh viện là hàng rào làm bằng những cây song sắt đen xì cao khoảng 2 thước, trên có mũi nhọn như mũi tên, chỗ còn sơn, chỗ đã rỉ sét.

Phía hàng rào ở bên đường Triệu Ðà có một cái miễu nho nhỏ xây bằng gạch đỏ, ngói xanh, dựa lưng vào bệnh viện, lư hương bên trong đó có cắm rất nhiều chân nhang đỏ còn mới, và một nải chuối xanh, một cái bình trà bằng đất nâu đen và vài cái chung nho nhỏ, trông như có vẻ được cúng kiếng thường xuyên. Người ta nói bệnh nhân trong bệnh viện này tự tử nhiều lắm, vì các hồn ma phải kiếm người khác thay thế mới đi đầu thai sang kiếp khác được, nên họ phải thờ cúng để khỏi bị các oan hồn này quấy nhiễu. Riêng tôi thì nghĩ là những bệnh nhân bị lao phổi tinh thần họ rất sáng suốt, nhưng biết rằng bệnh của mình (hồi đó) chữa hoài không hết, nhà cửa túng thiếu, tiền bạc không còn, mọi người xa lánh, nên phần lớn chán nản mà tìm đến cái chết để phủi sạch nợ đời.

Ðêm đó tôi trực có một mình, phải đi tới đi lui từ trại bệnh này sang trại bệnh khác dưới những hàng cây âm u lạnh lẽo đó. Lúc thường thì tôi buồn ngủ sớm lắm, nhưng tối đó tôi tỉnh táo vô cùng, vì hồi chiều trước khi vào trực tôi chiều thằng Tâm, bạn học chung lớp, để đi đến quán cà phê Thúy Vân ở đầu ngõ, có cô hàng cà phê xinh xắn mà nó mê lắm, nhưng không dám đi một mình. Quán này chỉ có bán cà phê phin thôi, nên tôi đành phải uống một ly cà phê đắng, cắn răng nghe hết mấy bản nhạc tình buồn, thêm vào đó nhìn cái mặt u sầu, thất tình của nó, tôi càng thấy chán đời, bày đặt yêu đương làm chi cho khổ tấm thân. Phần tôi, tôi biết chắc chắn là ly cà phê này sẽ làm cho tôi không ngủ được đêm nay, nhưng không sao, bề nào tôi cũng phải thức trực mà, điều tôi không ngờ là ly cà phê đắng này lại làm tôi tỉnh táo và sáng suốt vô cùng, cho nên chuyện tôi gặp ma không phải là chuyện mơ ngủ đâu.

Lúc đó là khoảng 12 giờ khuya, tôi được gọi sang một trại bệnh thật xa, ở cuối nhà thương, để ký giấy khai tử cho một ông già khoảng gần 60 tuổi. Ông này bị lao phổi rất nặng, lâu ngày ăn uống không được, thân thể gầy gò, khô héo còn da bọc xương, hai ngày trước đây căn bệnh đã ăn lan vào các mạch máu trong cuống phổi, nên ông ho ra máu nhiều, do đó người nhà chở từ Bến Lức lên để vào nhập viện, ai cũng biết là ông không sống được lâu. Nhưng đêm nay, lựa đúng cái đêm tôi trực thì ông chết, chết đúng nửa đêm, làm tôi phải đi lang thang giữa trời khuya lạnh lẽo đến cái trại bệnh xa xăm của ông để khám nghiệm, sau khi chắc chắn là tim phổi và hệ thần kinh não bộ đều đã ngưng làm việc thì mới dám ký tên vào tờ giấy khai tử để bác y công đẩy cái xác không hồn này xuống phòng lạnh, chờ đến mai thông báo người nhà đến lãnh xác về chôn.

Thế là vào giữa đêm khuya khoắt thiêng liêng và lạnh lẽo này, tôi vừa mới tiễn thêm một người sang bên kia thế giới. Cái nghề thầy thuốc này lúc nào cũng đứng cheo meo ở giữa 2 thế giới: bên nay bờ là sự sống, bên kia bờ là cõi chết. Có người mới thấy đó mà đã vội vã đi sang bên kia, không kịp vẫy tay chào hay nói một lời vĩnh biệt. Có người sắp chết, sắp tới bờ bên kia thì mình giành giựt kéo lại thoát tay tử thần để trở về thế giới bên này, giữa cái chết và sự sống hình như có một sự ràng buộc nối tiếp nào đó, chớ không có đơn giản như người ta thường nghĩ.

Những ý nghĩ về sống chết, về thế giới bên này, thế giới bên kia, cứ lẩn quẩn trong đầu óc tôi, bước chân tôi thì cứ thẫn thờ đi dọc theo những con đường mòn rờn rợn, âm u, quanh co trở về phòng trực.

Ðêm nay trời Sài Gòn lành lạnh, thỉnh thoảng một cơn gió thốc thổi ùa qua khua động cành lá xum xê của những cây còng ngạo nghễ to lớn, vang lên những tiếng kêu xào xạc thì thầm, như những tiếng gọi ma quái trêu ghẹo những người nhát gan trong đêm đen. Cách khoảng xa xa chừng mỗi 20 thước là một bóng đèn điện tròn mù mờ treo lủng lẳng dọc theo các lối đi không đủ soi sáng bước chân lần mò trên sỏi đá. Nhưng những con đường này tôi đã quen rồi, quen cả những tiếng rên siết vặn mình của những hòn sỏi nhỏ dưới gót giày đen; trong đêm tối hình như chúng gào thét lớn hơn có khi như nguyền rủa, có khi tạo ra những tiếng cười rờn rợn như những âm binh từ cõi vô hình để nhát những người yếu bóng vía.

Trên trời cao giữa những vì sao đêm thưa thớt, buồn bã là một vầng trăng lưỡi liềm già nua không làm sáng thêm một chút nào cái bóng tối dày đặc trong bệnh viện. Trời đêm nay ít sao, ánh sáng yếu ớt, lấp lánh như những ánh ma trơi len lỏi giữa những cành lá rậm rạp, đen sì, không ngừng run rẩy theo những cơn gió thốc chợt đến, chợt đi.

Khi tôi sắp sửa quẹo trái để trở về phòng trực, thì chợt thấy dưới ánh đèn mù mù xa xa bên tay phải có một bóng trắng ngồi trên băng đá dọc theo con đường nhỏ trước ngõ vào khu trại bệnh của sinh viên. Tôi đứng lại nhìn, nhưng xa quá nên không thể nào nhận ra bóng trắng trên băng đá là ai? Một chị y tá hay là bác y công chứ gì! Nhưng lúc tôi ký giấy khai tử xong thì bác y công còn ở trong trại bệnh mà, đâu có ra đây trước tôi được, có lẽ một chị y tá nào ra ngồi hóng gió mát cho khỏe mà thôi. Tôi cất bước tiếp tục trở về phòng, mới đi có vài bước hình như tôi nghe có tiếng khóc thút thít hòa lẫn trong tiếng sỏi đá rên rỉ dưới chân tôi, tôi vội ngừng lại để lắng nghe, tiếng khóc khi đó nghe rõ hơn, đó là tiếng khóc của một người con gái, tiếng khóc chỉ nhẹ thôi, nhưng nghe thật rõ như ai đang khóc vào tai tôi, tiếng khóc nghe thật buồn, thật đau thương làm tôi thấy nhoi nhói trong tận đáy lòng.

Tôi đứng ngẩn ngơ tại chỗ phân vân không biết phải làm gì, không biết mình có giúp được gì cho người ta không, dĩ nhiên nếu người ta cần gì thì mình sẵn sàng giúp đỡ hết lòng, nhưng tôi cũng ngại lắm vì tánh tôi hồi đó nhát làm quen với mấy cô gái, nhất là gặp một cô lạ hoắc vào giữa đêm khuya khoắt như thế này thì chẳng biết phải ăn nói làm sao, nên tự bảo rằng đó là chuyện riêng tư của người ta, mình xía vô làm chi. Tôi lại tiếp tục cất bước chầm chậm ra đi. Nhưng tiếng khóc thúc thít đó, một lần nữa dù rất nhỏ nhưng vẫn nghe thật rõ bên tai tôi, hình như nó cố tình bay theo để rót vào trong tai những lời nỉ non ai oán, thê lương từ một cõi u minh xa thẳm vọng về làm hai chân tôi không thể nào tiếp tục bước đi nổi, bước chân tôi bổng chợt chậm lại, chậm lại rồi ngừng hẳn, bóng trắng kia giờ đã khuất sau lùm cây rậm rạp nhưng tiếng khóc nỉ non vẫn tiếp tục tràn ngập đổ đầy tai tôi, lòng tôi chùn lại xót xa, tim tôi đau nhói từng hồi.

Khi đó gió từ đâu bỗng thổi tới ào ạt, liên tục, ầm ầm trên đầu tôi làm cho những chiếc lá nho nhỏ trên mấy cây còng già rơi rụng lã tã như mưa, cành lá nghiêng ngả xì xào vặn mình rên siết kẽo kẹt như trong cơn bão táp, nhưng tất cả những thứ ấy vẫn không át được tiếng người con gái khóc thút thít trong tai tôi. Mảnh trăng lưỡi liềm yếu ớt trên trời cao bỗng dưng núp sau đám mây đen làm cho cả bầu trời tối sầm lại, bóng đèn điện mù mờ lạc lõng trong bệnh viện lắc lư theo từng cơn gió thổi khiến nó vốn đã lờ mờ lại càng mờ ảo thêm. Bầu trời như sụp xuống thấp hơn, không gian tối đen quanh tôi như càng đậm đặc thêm. Tôi thấy như có làn gió lạnh lùa vào trong chiếc áo choàng trắng đang mặc, rồi len lỏi thấm vào trong cột xương sống làm tôi rùng mình chợt cảm thấy lạnh lẽo vô biên, y như những truyện ma quỷ nhập vào người mà tôi đã đọc hồi còn nhỏ.

Nhưng cho đến lúc đó thì tôi vẫn tin chắc rằng trên cõi đời này không thể nào có ma được, cho nên tôi rất là bình tĩnh, không để ý đến những gì xảy ra chung quanh mà chỉ tập trung ý nghĩ về người con gái cô đơn, bất hạnh đang ôm nỗi buồn đau, thút thít khóc giữa trời giông gió khuya khoắt trong bệnh viện này. Sau một phút phân vân, tôi rảo bước quay trở lại xem sao, thử tìm hiểu xem coi mình có thể giúp được gì không?

Khi tôi đến gần bóng trắng thì tự nhiên trời quang mây tạnh, vầng trăng lưỡi liềm lại nhô ra khỏi đám mây, sáng hơn khi nãy, xung quanh là muôn ngàn vì sao lấp lánh chớp tắt mừng vui giữa trời khuya, gió cũng ngừng thổi, tôi chợt ngửi thấy mùi hoa lài thoang thoảng đâu đây làm tôi rất ngạc nhiên, vì tôi biết chắc là trong nhà thương này không có trồng cây nào có bông cả, nhất là bông thơm như hoa lài, vì thường thì bệnh nhân hay thân nhân sẽ hái hết, cây cối sẽ trụi lủi, nên họ chỉ trồng cây không hoa, không trái mà thôi. Mùi hoa lài thì rất thân thuộc với tôi, có thể nói đó là mùi hoa duy nhất mà tôi thích, rất thân thuộc đến đỗi tôi có thể ngửi thấy mùi hoa này từ rất xa. Lý do là vì hồi còn nhỏ trước nhà tôi có miếng vườn con con, má tôi đã trồng một cây hoa lài trong đó, tôi thường bắc ghế ngồi trong vườn đọc tiểu thuyết tình cảm, vô tình mùi hương thơm tinh khiết, ngọt ngào và nhẹ nhàng của loài hoa trắng ngây thơ này đã ngấm vào khứu giác tôi, hòa vào thân thể tôi, trở thành một với tôi và là hương thơm duy nhất trong đời mà tôi thích ngửi, nên khi lớn lên tôi không thích mùi nước hoa nào khác cả, mà tiếc thay mùi hoa lài thì chẳng thấy có tiệm mỹ phẩm nào bán.

Khi đến gần bóng trắng, mùi hoa lài êm dịu càng đậm đà hơn làm tôi cảm thấy khoan khoái, trong người lâng lâng, ngây ngất, dễ chịu vô cùng, tôi quên hết mọi cực khổ trong ngày, chợt thấy rất có cảm tình với người con gái này và bổng dưng tôi cũng cảm thấy rất gần gũi với nàng y như là tôi đã quen với cô gái này từ lâu lắm rồi. Tiếng khóc nức nỡ khi đó chợt nhỏ lại có lẽ bóng trắng biết là có người đến gần.

Bóng đèn điện bên đường đã ngừng lung lay cho tôi thấy rõ bóng trắng đang ngồi trên băng đá là một người con gái gầy gầy, nho nhỏ, mái tóc đen dài óng mượt không uốn, xỏa xuống đến giữa lưng, đầu nàng hơi cúi nghiêng nghiêng về phía trước, làm cả một hàng tóc rũ thẳng xuống như một bức rèm thưa đen, che mập mờ nửa khuôn nặt trái soan. Nàng đang mặc chiếc áo bà ba trắng và chiếc quần lụa trắng mềm mại. Nhìn cách ăn mặc tôi biết nàng không phải là y tá hay nhân viên của bệnh viện, có lẽ là bệnh nhân mới nhập viện hay thân nhân có chuyện buồn nên ra đây ngồi than khóc một mình.

Khi tôi đến thật gần, mùi hoa lài càng thơm tho làm tôi thấy lòng mình thật là an tĩnh, tôi nhẹ nhàng hỏi:

- Xin lỗi…. có gì làm cho …. chị không vui, phải không?

Nàng từ từ ngẩng đầu lên thật chậm, nhìn tôi, tôi thấy mặt đất chung quanh tôi hơi rún động, tôi đứng không vững lắm, vì trước mặt tôi là một người con gái đẹp tuyệt vời, tuổi chừng hai mươi, đôi mắt nàng thật buồn, màu đen huyền lóng lánh như đang chứa đựng cả ngàn vì sao lạc lõng lấp lánh trên trời cao, hai hàng lông mi dài đen, cong vút, rất ít khi thấy ở những cô gái Việt Nam. Da mặt nàng trắng mịn màng, tôi chưa từng thấy ai không đánh phấn mà trắng như vậy bao giờ, nhưng đôi môi thì hơi nhạt màu như người thiếu máu, có lẽ nàng đang bị lao phổi nên phải vào đây chữa trị chăng?

Những sợi tóc rối vương vấn trên vầng trán cao, một vài sợi dính vào bên má hình như còn thấm nước mắt của nàng, có lẽ nàng đã ngồi đây khóc lâu lắm rồi. Nàng chỉ nhìn tôi một chút rồi lại cuối xuống thút thít khóc, khi nãy tiếng khóc làm tôi xót xa một thì bây giờ tiếng khóc làm tôi đau đớn gấp mười lần, nhìn đôi vai gầy nho nhỏ run run dưới làn lụa trắng, mà ruột gan tôi như bị xé rách tơi bời. Tôi buồn quá, đứng lặng yên không biết nói gì, không gian quanh tôi tưởng chừng như bị đông thành băng giá, lạnh lẽo cứng ngắc tự ngàn năm như những tảng băng ở hai cực địa cầu, chừng một lúc lâu cố moi trong đầu óc ra những câu văn trong các cuốn tiểu thuyết tình cảm mà tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tôi mới mở miệng nói được một câu:

- Thưa cô, tôi có thể làm gì được cho cô không?

Cô chỉ lắc đầu nhè nhẹ để những sợi tóc dài phất phơ nghiêng ngã, mà không nói gì. Thấy người ta đau khổ quá thì tôi chợt nổi máu anh hùng lên để giúp đời, nên tôi trở nên dạn dĩ hẳn ra, đầu óc sáng suốt trở lại, tôi khuyên lơn nàng:

- Cô về gường nằm nghĩ đi, đừng ở ngoài này lâu, sương khuya lạnh lắm, coi chừng bị bệnh khổ lắm đó.

Khi đó nàng mới nói, giọng của nàng thật êm, thật nhẹ nhưng rất buồn:

- Em đâu có giường mà đi nằm nghỉ. Em có còn gì nữa đâu. Anh Bình ơi, em đã chết rồi.

PHẦN 3

Khi đó tôi choáng váng muốn ngộp thở, thấy cả người lao đao, đứng không vững. Không phải vì sợ nàng nhát ma tôi, cho đến giờ phút đó thì đối với tôi thế gian này vẫn không thể nào có chuyện ma quỷ được, tôi còn cười thầm trong bụng vì cô này nhè tôi mà làm bộ nhát ma thì quả thật đã chọn lầm người, tôi không nhát ma cô là may phước lắm rồi. Tôi choáng váng là vì không biết tại sao giữa đêm khuya khoắt lại có một người con gái đẹp như tiên nga giáng thế này, tự dưng lại biết tên mình. Tôi bỏ qua chuyện ma quỷ lẩm cẩm, vội vàng hỏi tên của cô là gì, làm sao cô lại biết tên tôi?

- Em tên là Lài, Trương Thị Lài, đang học đại học Văn Khoa năm thứ nhất thì bị bệnh, nên nằm trong khu nữ sinh viên cả tháng nay để chữa bệnh. Thấy anh thường vào thăm anh Trung, bạn của anh, nằm bên khu nam sinh viên mà anh Trung hay qua đàn cho tụi em hát nên quen, anh Trung nói anh hiền lắm nên tụi em để ý mà biết tên anh.

- Ðừng có tin ảnh, anh dữ như… cọp chớ hiền gì. Nè, mà tại sao em khóc? Sao khuya khoắt rồi mà lại ra đây có một mình, không sợ ma sao? Trời lạnh như vầy mà không mặc áo ấm, lỡ bị bịnh thì sao. Em ngồi ở đây từ hồi nào? Có đói bụng hông, anh mang bánh ra cho ăn. Bệnh viện này có ma nhiều lắm đó nghen, muốn anh kể vài chuyện cho nghe hông. Cho anh ngồi xuống được không, suốt đêm nay, đứng với đi không mỏi chân quá rồi, mà em đem hoa lài vô đây làm chi vậy? Anh thích hoa lài lắm, mùi thơm dễ chịu lắm em biết hông.

Lài cười khúc khích:

- Anh hỏi gì mà nhiều dữ vậy, làm sao em trả lời, vậy chớ đố anh biết làm sao em khóc.

- Con gái thì cái gì cũng khóc được, làm sao anh biết mà trả lời.

- Vậy chớ con trai mấy anh khóc ít lắm hả ?

- Dễ ợt, chỉ có 3 thứ làm con trai khóc thôi. Thứ nhất là thi rớt, thứ nhì là mất xe, thứ ba là mất bồ.

Lài chợt cười lớn thành tiếng, tiếng cười của nàng trong trẻo kéo dài như pha lê, làm tôi thấy mừng không tả, chỉ mong nàng đừng trở về trại bệnh nghỉ ngơi theo lời khuyên dại dột của tôi khi nãy, mà tiếp tục ngồi đây nói chuyện với tôi lâu thêm một chút nữa. Lài cười hỏi:

- Tại sao mất bồ lại nằm hạng chót ?

- Mất bồ thì có thể kiếm đứa khác, mất xe thì hết hy vọng có tiền mua chiếc nữa, thi rớt thì phải đi lính không biết ngày nào trở về, mà biết có còn sống không mà quay về, cho nên mất bồ chỉ được xếp hạng ba. Còn em tại sao mà khóc ?

- Em tủi thân, vì em đã chết rồi.

- Em đừng có nói bậy, mặt mũi đẹp đẽ như vầy thì chết làm sao được.

- Em biết là nói ra anh hổng có tin, em chết đã 3 hôm rồi, nhưng vì chưa đúng hạn kỳ nên hồn em vẫn còn vất vưởng lẩn quẩn quanh đây. Vả lại em cũng muốn gặp anh, để trả chút ơn anh chăm sóc em khi xưa.

Ðến đây tôi vẫn nghĩ là Lài cố tình đùa dai nhát ma tôi, cũng như tôi đã từng đùa dai nhát ma người khác, tôi bèn chọc lại:

- Thì anh cũng là ma đây, vì anh vừa mới chết… ở trong lòng một ít.

Lài cười thút thít:

- Vậy mà anh Trung cứ nói là anh hiền lắm.

- Hiền hay dữ thì tùy người đối diện.

Lài lại khuyên tôi:

- Anh về phòng nghỉ đi, đừng có ngồi ở đây, sương khuya lạnh lắm.

- Bộ em không lạnh hả?

- Lạnh lắm chớ.

Tôi cầm lấy bàn tay Lài, bàn tay rất là mềm mại nhưng rất lạnh, y như bàn tay của những xác chết trong phòng lạnh mà tôi đã có dịp mân mê trong những giờ học khám nghiệm tử thi, nhưng tôi nghĩ là tại Lài ngồi quá lâu trong đêm khuya nên bị lạnh. Tôi vội vàng cởi chiếc áo choàng trắng của bệnh viện đang mặc choàng quanh lưng, trùm kín lấy 2 vai nàng, nàng đưa hai bàn tay lên luồn vào mái tóc mềm mại óng ả, lùa cả suối tóc đen ra bên ngoài chiếc áo choàng trắng. Lúc này mắt tôi đã quen với ánh sáng mờ ảo, nhìn kỹ tôi mới thấy Lài đẹp vô cùng, đẹp não nùng như những nàng tiên buồn trên thượng giới bị đày đọa xuống trần gian:

- Trời ơi, sao em để lạnh như vậy, ngồi ngoài trời lạnh như vầy mà không mặc áo lạnh lỡ bị bệnh thì sao, mặc đỡ cái áo choàng này đi, tay em lạnh lắm đó, hay là trở về trại bệnh đi.

Lài nói thật chậm rãi, tiếng nàng thật trầm, thật áo não như từ một cỏi âm ty xa thẳm vọng về:

- Em đã nói em chết thật rồi mà anh hổng chịu tin, em đâu có còn giường nữa đâu mà vô trại nằm. Hồi nãy anh hỏi em đem hoa lài vô đây làm chi vậy? Em đâu có đem hoa lài vô đây làm gì, chẳng qua là vì tiền kiếp em vốn là đóa hoa lài, nên sau khi em chết rồi thì em trở về với kiếp trước nên em có mùi thơm của hoa lài. Phần lớn tên gọi hay những sự việc xảy ra chung quanh không phải là ngẫu nhiên đâu, mà việc gì cũng có vô số cơ duyên hợp lại mà thành, những người đang còn sống như anh vì không có sự hiểu biết sâu sắc hay không có cơ hội tập trung thiền định để nhìn thật sâu thật kỹ những cơ duyên này cho nên cứ tưởng mọi việc tự nhiên mà có. Giống như em nè đâu phải tự dưng ba má em đặt tên cho em là Lài.

- Em phải để cho anh xét túi nếu không có hoa lài trong túi, mà em thơm thật thì anh mới tin.

- Anh cứ xét đi.

Quả thật là chẳng có gì trong túi nàng, mà cái mùi thơm hoa lài nhẹ nhàng y như cứ từ trong tóc tay, da thịt, hơi thở nàng tỏa ra. Ðến lúc đó thì tôi tin nàng là ma thật. Nhưng rồi một ngày nào đó tôi cũng sẽ chết, sẽ là ma như nàng, mà ngồi bên cạnh một con ma xinh đẹp như vậy trong đêm thanh vắng với mùi hoa lài thơm tho nhẹ nhàng dễ chịu mà tôi ưa thích từ hồi còn nhỏ như vầy thì đâu có gì đáng sợ. Nên tôi cứ tiếp tục ngồi đó nói đủ thứ chuyện với Lài. Nàng cho biết là tôi với nàng đã có duyên với nhau trong nhiều kiếp trước, nên đêm nay nàng mới hiện ra để gặp lại tôi. Nàng chính là đóa hoa lài trong vườn nhỏ của nhà tôi khi xưa, mà mỗi chiều tôi thường đến ngồi bên nàng, thường nâng niu và hôn nhẹ lên cánh hoa. Lài biết tôi thích mùi thơm của nàng, nên thường khép cánh cố giữ mùi hương lại chờ đến chiều tôi về nàng mới để cho cánh hoa hé mở tỏa hương thơm ngan ngát. Còn tôi, khi xưa thì rất yêu hoa lài, nên lúc nào cũng nhẹ nhàng cẩn thận chăm sóc tưới nước, bón phân.

Lài nói, nàng cảm kích nghĩa cử đó, nên giờ muốn gặp lại để ngỏ lời cám ơn cái duyên hội ngộ khi trước. Khi xưa, ngồi bên nhau, dù không nói một câu gì, nhưng chúng tôi đã rất thân với nhau, đã chăm sóc và thương yêu nhau bằng một tình yêu rất nhẹ nhàng và thanh khiết. Ðêm nay, chúng tôi ngồi kề bên nhau, kẻ âm người dương, tuy thuộc về hai thế giới rất xa xôi, nhưng không những thân xác thật gần gũi như dính chặt vào nhau, mà hai tâm hồn như đã quấn quít lấy nhau từ kiếp nào rồi, chúng tôi rất quý trọng nhau, cùng kể cho nhau nghe những buồn vui đã xảy ra trong cuộc đời, chúng tôi hợp với nhau lắm, nên suốt đêm đó nói không bao giờ dứt. Tuy nhiên miệng tôi khi đó đắng chát, ruột gan tôi thì tan nát tơi bời vì tôi biết rằng người con gái dịu hiền xinh đẹp vừa mới gặp mà tôi thấy lòng như đã thương yêu từ bao kiếp trước này chỉ là một hồn ma và chỉ trong chốc lát nữa đây, chúng tôi sẽ xa nhau nghìn trùng, biền biệt ở hai thế giới khác, không biết bao giờ mới gặp lại nhau.

Biết tôi đang buồn, Lài mới từ từ giải thích rằng thật sự chúng tôi đã có duyên với nhau từ nhiều kiếp trước. Chúng tôi đã từng là đôi chim tung tăng suốt ngày bay lượn giữa trời cao; chúng tôi đã từng là đôi bướm lững lờ, chập chờn đuổi bắt nhau giữa rừng sâu; tôi đã từng là bóng cây đứng bên bờ suối che mát cho Lài, còn nàng là dòng suối ngọt ngào suốt ngày róc rách ca hát cho tôi nghe. Chúng tôi đã từng gặp nhau và đã xa nhau trong nhiều kiếp nhưng vì tình cảm quá đậm đà nên chúng tôi cứ còn trở lại để gần nhau. Nhưng dù trong những lúc xa nhau chúng tôi vẫn mang theo hoài hình ảnh của người kia ở trong lòng.

Lài lấy thí dụ: tôi cũng như một tảng mây trắng lơ lững bay giữa trời xanh, còn Lài như là một dòng sông êm đềm chảy nhẹ nhàng qua bao đồng lúa, qua bao cánh rừng, dù đứng ở đâu ta cũng thấy dưới lòng sông lúc nào cũng ôm ấp chứa đựng hình ảnh của đám mây, còn mây có bay đi đến tận nơi nào thì cũng đều mang theo những giọt nước mát mẻ ngọt ngào của dòng sông. Ðứng ở ngoài cứ tưởng dòng sông và mây trắng là hai thực thể cách biệt muôn trùng, nhưng thật ra chúng tôi đang có mặt trong nhau từng phút giây, rồi thì mây cũng sẽ trở về với dòng sông một ngày nào đó. Lài khuyên tôi đừng buồn, hãy rán giữ gìn sức khỏe, ở một kiếp lai sinh nào đó thì chúng tôi sẽ lại gặp nhau.

Ðêm đã gần tàn, tôi biết giờ chia ly cũng sắp đến, tôi cũng vừa nếm được ý nghĩa đớn đau đã nằm sẵn trong câu ngàn thu vĩnh biệt; rồi đây trong cõi đời mù mịt còn lại tôi vẫn phải tiếp tục lê những bước chân độc hành lang thang trên những con đường vắng mà nghe tiếng sỏi đá rên siết vặn mình dưới gót giày cô đơn trong đêm tối, như tôi đã bước đi trên những con đường lạnh lẽo trong đêm qua ở bệnh viện này. Tuy nỗi buồn đang làm tan nát cả ruột gan, nhưng tôi cố gắng không biểu lộ ra ngoài, vậy mà Lài cũng hiểu, nàng khuyên tôi đừng buồn, hãy coi đây như là một chuyến đi xa, rồi mai kia mình sẽ quay về, sẽ còn gặp lại. Trước khi từ biệt, Lài tặng tôi một bài thơ ngắn, tiếng nàng thật nhỏ, thật trầm, hình như nàng cũng buồn không kém gì tôi. Tôi học ban toán và khoa học từ nhỏ nên rất dốt về thơ, vậy mà bài này nghe nàng đọc có một lần thôi tôi còn nhớ mãi đến bây giờ.

PHẦN 4

Trước khi chia tay Lài cám ơn tôi đã làm cho nàng bớt buồn, tôi cám ơn Lài đã dành cho tôi một đêm thật đẹp, cho tôi ngửi lại mùi hoa thơm tho nhẹ nhàng mà tôi đã yêu thích từ hồi còn nhỏ, tôi nguyện sẽ mang những kỷ niệm này theo mãi đến cuối đời. Tôi mong sẽ sớm gặp lại nàng trong một kiếp lai sinh.

Lài nói nàng thương má lắm và mang cái áo len mỏng màu đỏ xếp gọn gàng để bên cạnh nãy giờ nhưng tôi không nhìn thấy, trao cho tôi và nhờ tôi mang đến nhà cho má nàng, căn dặn má nàng phải mặc cho ấm trong những ngày trời lạnh…

- Ông thầy! ông thầy! ông thầy!!!.

Tôi nghe như có tiếng ai gọi bên tai, mở mắt dậy thì trời đã hừng sáng, tôi thấy lạnh lắm, nhìn lên thì thấy chị y tá Hương đang trố mắt kinh ngạc đứng đó nhìn mình trừng trừng, chiếc áo choàng trắng của tôi nằm vắt bên cạnh trên thành dựa lưng của chiếc ghế đá trước đường vào khu trại bệnh sinh viên mà tôi đang ngồi. Tôi vội đứng dậy khoác áo choàng vào cho đỡ lạnh, mùi thơm hoa lài nhè nhẹ từ trong áo bay vào mũi khiến lòng tôi ngây ngất, tôi biết Lài còn quanh quẩn đâu đây.

- Chị Hương, gọi có gì hông ?

- Chèn ơi, đi kiếm ông thầy suốt đêm hông thấy, ông thầy ngồi đây lâu chưa? Em đi ngang qua đây hai ba lần sao hổng thấy.

- Bộ trong trại có bệnh nặng hả chị Hương?

- Hổng phải. Tại tụi em nấu 1 nồi chè đậu xanh ở ngoài phòng trực, tính mời ông thầy ăn chung cho vui, đi kiếm hết mọi chổ mà hông thấy, bây giờ chắc là chè nguội hết rồi, ông thầy đi đâu vậy. Bác Bảy y công nói ông thầy ký giấy khai tử hồi khuya xong là biến mất, hỏi chú Tư gác cổng thì cũng hổng thấy ông thầy ra khỏi bệnh viện, vào phòng trực của ông thầy thì cũng vắng ngắt, mấy chị em chia nhau đi kiếm ông thầy khắp nơi cũng không gặp, ông thầy ở đâu vậy ?

Tôi cũng ngẩn ngơ:

- Tôi ngồi ở băng đá này từ hồi khuya tới giờ mà có thấy ai đi qua đâu?

- Chèn ơi, chính em đi ngang qua đây 3 lần, hai lần trước thì đi chung với chị Hà tại em sợ ma hổng dám đi một mình, bây giờ hừng sáng rồi mới dám đi một mình, ông thầy ngồi đây thiệt hả, chắc là tụi em phải đeo kiếng cận thị quá.

Tôi theo chị Hương về phòng trực, mặt mày ngơ ngác, đầu óc còn đang quay cuồng với muôn ngàn câu hỏi về hai nẻo âm dương, về một tình yêu thanh khiết đầu tiên trong đời, với một người con gái đẹp tuyệt vời… nhưng chỉ đến và đi nhanh hơn một giấc mơ, không thể nào giải thích được. Từ lâu tôi đã cố luyện cho mình thành một người cứng cõi, một trái tim sắt đá không thể bị xao động bởi những chuyện yêu đương vớ vẩn để lúc nào cũng vững bước hiên ngang đi vào cuộc đời như những vị anh hùng dũng cảm xa xưa, nên lòng tôi lúc nào cũng dửng dưng trước những quyến rũ của sắc đẹp. Ðôi khi tôi còn chê trách những thằng bạn mặt mày ủ rủ thất tình, hoặc cười chọc phá những đứa mê mệt với tình yêu quên cả giờ tập họp nên thường hay bị bỏ tù lúc còn ở quân trường, như BS Trương Chí Vân, BS Nguyễn Hữu Tường, … Phần tôi thì tâm hồn luôn thanh thản, lúc nào cũng siêng năng rèn luyện thân thể, chăm chỉ hăng hái chu toàn mọi bổn phận và trách nhiệm của mình, nhưng lần này thì tôi bị ngã quỵ, trái tim sắt thép của tôi bị tan rã thành một vũng nước bèo nhèo như một tảng băng giá vừa được đưa ra dưới ánh nắng rực rỡ của mặt trời. Trái tim tôi đang thổn thức theo từng nhịp đập của yêu thương, lòng tôi thì nức nở mang theo một nỗi buồn áo não, tiếc thương cho một người con gái diệu hiền đẹp tuyệt trần có mùi thơm hoa lài phảng phất đã sớm về âm thế…

Tôi vừa mới bước vào phòng trực, thì mọi người lập tức yên lặng, mọi cặp mắt đều chiếu thẳng vào tôi như những cặp đèn pha sáng rực của xe hơi trong đêm tối, họ muốn biết chuyện gì đã xảy ra suốt đêm qua trên gương mặt thất thần của tôi. Tôi chẳng nói một lời nào, lập tức ngồi xuống bàn, với tay kéo chén chè đậu xanh duy nhất còn lại ở giữa bàn, không cần phải xã giao lịch sự gì cả, bởi vì tôi thấy đói bụng khủng khiếp, phần thì lạnh quá xá, chén chè cũng đã nguội ngắt, nhưng tôi ăn một mạch sạch trơn rất là ngon lành. Một vài tia nắng sớm yếu ớt lấp ló ngoài khung cửa sổ, có tiếng chim hót nho nhỏ xa xa trên cành cây cao báo hiệu bình minh sắp đến, tôi định thần từ từ nhìn hết mọi người, bốn cô y tá đứng cạnh nhau, đầu tóc quần áo đã sửa soạn tươm tất, chờ chút nữa giao ban xong là về nhà nghỉ ngơi, nhưng trong giờ phút này đây ai nấy cũng đang hồi hộp đợi chờ, muốn biết chuyện gì đã xảy ra cho tôi suốt đêm qua. Chị Liễu, y tá trưởng lo lắng ấp úng hỏi:

- Ðêm qua có chuyện gì vậy ông thầy?

Tôi chưa vội trả lời, từ từ đứng dậy uể oải bước đến cái tủ lạnh lớn trong góc phòng, mở cửa đổ đầy một ly nước lạnh, uống xong một hớp lớn, tôi chậm rãi kể hết những chuyện xảy ra hồi hôm, ai nấy cũng trợn trừng mắt, há hốc mồm kinh ngạc, chị Liễu nói:

- Tội nghiệp cho cô Lài lắm, lúc vào đây cổ khóc hoài.

- Phải cô Lài ở khu nữ sinh viên không?

- Ðúng rồi, cổ chết đã 3 hôm rồi. Cổ đẹp lắm, đẹp nhất trong trại đó, nhiều cậu sinh viên trong này mê cổ lắm, mà hình như cổ hổng có để ý đến ai cả. Ông thầy trước đây có… quen với cổ không ?

Không, lần đầu tiên tôi mới gặp cổ đó.

- Vậy thì ông thầy có số đào hoa lắm đó

- Ðào hoa cái con khỉ gì! Từ trước tới giờ lúc nào cũng lủi thủi một mình, đến chừng mới quen được một người thì người ta chết đã 3 bữa rồi…

Mắt tôi bỗng dừng lại khi thấy chiếc áo len đỏ xếp ngay ngắn trên một cái kệ kê sát bên tường, tôi bước vội đến cầm lên xem. Ðúng rồi, chiếc áo len đỏ mà Lài đã nhờ tôi mang về cho má. Tôi hỏi:

- Áo này của ai đây?

Chị Liễu nói không biết áo của ai để đó đã 3 hôm rồi. Tôi mới giải thích đó là áo của Lài nhờ tôi gởi về cho má, thì ai nấy cũng lắc đầu lè lưỡi.

Tôi lật vội cuốn sổ bệnh để trên bàn trực, dò lấy tên Trương Thị Lài, đây rồi, địa chỉ nhà số… đường Trương Minh Giảng, Quận Tân Bình. Tôi chép vào miếng giấy nhỏ, cẩn thận bỏ vào trong túi áo, xong rồi ôm chiếc áo len đỏ lững thững rời phòng trực bước ra ngoài mà nghe cõi lòng tan nát, bước chân đi như một thân xác không hồn, quên cả việc phải ở lại giao ban ngày hôm đó.
Read more…

Người về từ đáy mộ

05:34 |
Bạn là người yêu thích sự đam mê, khám phá, hãy đến với bộ truyện ma cực hay, dành cho những người chuyên nghiên cứu hoặc tìm hiểu về thế giới bên kia, những điều kì lạ vẫn chưa được khám phá hết.

Người về từ đáy mộ


Lão Tư cố hả miệng ngáp một cách đau đớn:

- Mày đầu độc tao… Mày đầu độc tao, con quỉ cái!

Bà Tư gật đầu, đáp bằng một giọng thật lạnh lùng:

- Đúng, tôi đầu độc ông. Trước sau gì thì ông cũng chết, thầy y tá đã nói như vậy, chỉ còn là vấn đề thời gian. Có thể một vài tháng, có thể một vài năm, và ông hiểu rằng tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Mười lăm năm nhục nhằn! Mười lăm năm đầy cay đắng!

Lão Tư nghiến chặt hai hàm răng vì đau đớn nhưng cũng ráng gừ lên một tiếng chửi rủa như lão vẫn chửi rủa vợ lão mỗi ngày trong suốt mười lăm năm qua:

- Con đĩ chó khốn nạn! Trời sẽ phạt mày.

Bà Tư vẫn lạnh lùng:

- Đáng lẽ mình không nên lấy nhau. Tôi không hề yêu ông và ông cũng chẳng ưa tôi. Ông căm hận tôi vì việc ông không lấy được con Ba cháo lòng. Còn tôi, ông cũng biết rằng tôi chỉ muốn làm vợ anh Bảy thợ hồ. Chỉ vì mấy thửa ruộng của hai nhà sát bên nhau mà cha mẹ ông và cha mẹ tôi buộc tôi phải lấy ông và ông phải lấy tôi. Tôi biết đó là cả một cực hình cho ông cũng như cho tôi.

Lão Tư vừa lăn lộn vừa chửi rủa:

- Đồ con đĩ chó!

Bà Tư vẫn nói bằng một giọng đều đều:

- Tôi có ý định đầu độc ông từ khi ông mới ngã bệnh. Thầy y tá nói rằng ông có thể sống lây lất hàng năm khiến tôi không chịu nổi. Tôi không còn muốn bị ông đánh đập chửi rủa mỗi ngày nữa.

Lão Tư rên rỉ:

- Tao cầu mong cho lũ quỉ mặt xanh nanh vàng tra tấn mày dưới điạ ngục.

- Có thể… Nhưng dầu sao tôi cũng tìm được sự bình an trên cõi đời này trước đã. Sống với ông đâu có khác gì bị ác quỉ hành hạ tra tấn!

Lão Tư vặn mình đau đớn, hai bàn tay lão nắm chặt lại chịu đựng. Là một người cứng rắn và mạnh mẽ, lão cố thu hết tàn lực:

- Tao sẽ trở về từ đáy mộ… con quỉ cái…

Rồi lão ráng giơ một nắm tay về phía bà vợ:

- Tao sẽ chờ mày…

Kiệt lực, lão buông tay xuống, mồ hôi tháo ra như tắm, toàn thân run rẩy:

- Trời đất ơi! Đau quá! Như dao đâm vào ruột…

Đột nhiên bà Tư ngẩng đầu nghe ngóng. Có tiếng chuông xe đạp. Bà bước vội tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài lẩm bẩm:
- Sao thầy y tá tới sớm quá vậy hà?

Rồi bà bước tới bên giường,lượm tấm khăn lông nằm dưới chân giường cuộn thành một bó đè cứng vào mặt lão Tư. Ngộp thở, lão Tư cố vùng vẫy nhưng bà Tư đè nguyên người lên tấm khăn… Chân tay lão Tư giựt mạnh mấy cái rồi buông xuôi…

Biết lão đã tắt thở, bà Tư đứng lên thở phào nhẹ nhõm, ném cái khăn lông lên lưng ghế trước khi bước ra mở cửa.
Bà nói với thầy y tá vừa bước vào bằng một giọng lạnh lùng:

- Lão đi rồi sau khi bị bất tỉnh như mấy kỳ trước. Mấy nhỏ đi học nên tôi không biết làm sao kêu thầy. Nhưng dầu sao tôi cũng mừng khi lão không còn hành hạ tôi được nữa.

Thầy y tá lắc đầu thông cảm. ở ngôi làng này mọi người đều biết chuyện của nhau. Thầy đứng nhìn thi thể lão Tư một lát trước khi kéo cái mền phủ kín mặt lão rồi quay sang bà Tư:

- Ngồi nghỉ một chút đi bà Tư. Đừng lo nghĩ gì nhiều, để tôi cho ông Tám Tàng hay trước khi nói với thầy giáo cho con Hoa và thằng Đực về ngay bây giờ. Bà Tư có muốn kêu ai nữa không?

Bà Tư lắc đầu:

- Nhờ thầy nói ông Tám tới đem lão đi ngay dùm tôi. Bây giờ căn nhà này là của tôi. Lão đi khuất mắt tôi sớm phút nào hay phút nấy. Tôi không muốn nhìn mặt lão nữa.

Bà nói tiếp bằng một giọng đầy cay đắng:

- Suốt đời lão làm khổ tôi. Tôi thù ghét lão từ ngày phải về với lão. Bây giờ căn nhà này là của tôi. Tôi sẽ khóa chặt căn phòng của lão ngay khi ông Tám đem lão đi. Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy bên trong căn phòng đó nữa. Chỉ toàn là những kỷ niệm đớn đau, những lời chửi rủa, hận thù. Tôi sẽ thiêu rụi căn phòng của lão nếu căn nhà này không bị ảnh hưởng gì.

Rồi bà ngồi xuống ghế ngước nhìn thầy y tá bằng đôi mắt lạnh lùng ráo hoảnh. Thầy nhìn bà Tư, nói bằng một giọng dịu dàng, thông cảm:

- Bà mệt mỏi quá rồi. Để tôi về lấy chai thuốc bổ tới cho bà.

- Tôi không cần thuốc bổ. Cái chết của lão là liều thuốc bổ tốt nhất đối với tôi… Thầy…

Thầy y tá gạt ngang:

- Thôi, không nên nói xấu người quá cố nữa. Ai cũng biết ông Tư đối xử với bà ra sao rồi. Để tôi đi kêu ông Tám.
Chưa đầy nửa tiếng sau, ông Tám Tàng và một thanh niên phụ việc đẩy xe tới. Bà Tư đứng ngay cửa phòng chờ cho hai người vừa khiêng lão Tư ra là bà khóa cửa lại, bỏ chìa khoá vào túi áo:

- Tôi thề sẽ không bao giờ đặt chân vào căn phòng này cho tới khi tắt thở.

Hai người đàn ông lắc đầu thông cảm. Họ hiểu rõ cuộc sống khốn khổ nhục nhằn của bà bên ông Tư từ nhiều năm qua.
Những năm kế tiếp, bà Tư ra đồng làm việc cùng các lực điền, và dành dụm thêm được khá nhiều vào cái vốn đã đồ sộ của bà. Bà vẫn lạnh lùng, không hề hở môi và không hề có bạn, như lão Tư không hề có bạn.

Rồi hai đứa con bà lớn lên. Con Hoa lập gia đình rồi theo chồng về làng bên. Bà Tư không nói một lời. Thằng Đực lớn lên ra đồng làm việc phụ mẹ khiến bà giảm được một gánh nặng. Rồi thằng Đực lấy vợ và đem cô dâu mới về ở chung với bà Tư. Rồi lũ con nít ra đời, sáu đứa cả thẩy. Nếu những tiếng cười vô tư của bầy trẻ có khiến tâm hồn bà nội chúng mềm đi một chút, bà không hề để lộ ra ngoài.

Suốt những tháng năm dài đó, một cái phòng, được gọi là phòng của nội, vẫn luôn luôn được khóa chặt. Cả gia đình không một ai nhắc nhở tới. Lũ trẻ biết có một cái gì – mà chúng cho là rất kinh khủng – ở bên trong nên mỗi lúc phải đi ngang phòng, chúng đi thật lẹ, và khi bóng tối bao phủ căn nhà, ánh đèn dầu lung linh tạo nên những hình nhân lắc lư rung động trên tường, chúng không bao giờ dám bước tới gần căn phòng của nội. Dĩ nhiên đầu óc trẻ thơ của chúng tưởng tượng thật nhiều.

Rồi một năm châu chấu phá hoại mùa màng. Năm sau trời hạn hán khiến giá thóc gia tăng trong khi lương bổng bị cắt giảm. Nhiều chủ điền cho thợ nghỉ việc.

Gia đình Hoa là một trong những nạn nhân đầu tiên. Mùa màng thất bát, chồng đau ốm rồi một đứa con ra chào đời! Vợ chồng Hoa bồng con về xin bà Tư cho ở chung. Bà Tư vẫn lạnh lùng như thường lệ, nhường cho vợ chồng Hoa một phòng.
Rồi tới phiên anh rể của Đực bị chủ điền cho nghỉ việc. Không công ăn việc làm, không tiền trả tiền mướn, anh ta cầu cứu vợ Đực. Nàng dâu bèn thưa chuyện với mẹ chồng.

Bà Tư, lúc này đã già, nói với con dâu bằng một giọng cương quyết trong bữa ăn chiều:

- Thêm bốn miệng ăn nữa cũng chẳng sao. Cho tụi nó tới đây. Nhưng… không biết rồi tụi nó ngủ ở đâu?

Hoa liếc nhìn Đực trước khi ngập ngừng nói lên cái ý nghĩ của tất cả mọi người:

- Phòng của nội. Mình có nên mở cửa phòng cho thoáng khí trước khi cho họ dọn vào không… mẹ?

Bầu không khí đột nhiên trở nên yên lặng nặng nề. Bà Tư liếc nhìn con gái trước khi lần lượt nhìn vào mặt từng người, gằn giọng:

- Mẹ đã thề không bước chân vào phòng đó cho tới ngày nhắm mắt.

Hoa thu hết can đảm:

- Nhưng mẹ đâu có bước vào đó làm gì. Nhà mình chật quá đâu còn chỗ nào khác nữa.

Bà Tư đặt đũa xuống bàn nói thật chậm rãi:

- Nếu có ai ngủ trong phòng đó, người đó phải là mẹ. Mẹ đã ở với cha tụi bay mười lăm năm trời, mười lăm năm đầy đắng cay thù hận. Cha tụi bay ghét mẹ hơn mẹ ghét ổng. Căn phòng đó đầy những sự thù ghét và sau mấy chục năm trời đóng kín, những sự thù ghét đó hiện đang sôi sục chỉ chờ cửa mở là tràn ra phủ ngập căn nhà này. Nhưng không sao, mẹ sẽ dọn vào đó.

Hoa nói bằng một giọng đầy hối hận:

- Phải chi con đừng đưa ra đề nghị đó. Con biết là có một cái gì giữa cha và mẹ nằm trong đó, nhưng con không biết…
Bà Tư ngắt lời con gái:

- Một cái gì mà con nói đó chính là sự thù ghét giữa mẹ và ổng. Nhưng không sao, mẹ đã già rồi, hơn bẩy mươi rồi. Chắc mẹ cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa…

Bà ngưng lại, đôi mắt già mỏi mệt nhìn thật xa xôi:

- Có thể đây là sự tiền định. Ổng nói rằng ổng sẽ chờ mẹ… Có thể… Ai biết!

Rồi bà đứng lên:

- Mẹ sẽ mở cửa phòng vào sáng ngày mai.

Dứt lời, bà mím chặt đôi môi, bước lên cầu thang về phòng ngủ trên lầu.

Vào phòng, bà Tư đóng cửa lại, ngồi yên lặng trên cái ghế nhỏ bên giường, đôi mắt mệt mỏi nhìn vào hư không trong khi cuốn phim dĩ vãng hiện ra thật rõ. Bây giờ, bà đang bị thúc giục mạnh mẽ bởi một ước muốn mà bà vẫn chôn chặt trong lòng từ gần một nửa thế kỷ, ước muốn của tất cả những kẻ sát nhân muốn nhìn lại khung cảnh phạm trường.

Ước muốn này đã tới với bà hàng ngàn lần trước đó nhưng lần nào bà cũng nén lòng được. Bây giờ, chỉ còn có mấy tiếng đồng hồ nữa căn phòng sẽ được mở ra, ước muốn lại trở về, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Căn phòng đóng kín đang réo gọi bà. Trong óc bà, một tiếng nói vô cùng mạnh mẽ vang lên “Bây giờ! Bây giờ!”. Tiếng nói này rất quen thuộc đối với bà vì đó là tiếng nói của chính ông Tư, người bà thù ghét, người bà đã giết chết!

Bà lặng lẽ đứng dậy, bước tới tủ áo, ngồi xuống mò dưới đáy tủ lấy cái chìa khóa mà bà đã giấu kín hàng mấy chục năm trời. Rồi bà trở lại ngồi trên ghế lắng nghe những tiếng chân lần lượt về phòng. Một lúc sau, căn nhà tối tăm đã hoàn toàn yên tĩnh.

Bà Tư đứng dậy hé cửa nhìn ra dẫy hành lang. Tất cả đều đã ngủ yên. Bà bèn trở vào phòng cầm cây đèn dầu, mở cửa thật nhẹ rồi rón rén bước xuống cầu thang.

Ngoài trời không khí bỗng trở nên nặng nề dường như muốn bão. Bà nghe tiếng gió rít qua những cành cây. Có một cái gì tương tự như tiếng gió than van ngoài đêm tối? Bà Tư ngưng lại, nghiêng tai lắng nghe và đột nhiên ký ức trở về thật rõ. Bà lẩm bẩm:

- Giống như đêm trước khi lão chết.

Tim bà đập mạnh hơn khi đứng trước cánh cửa đen ngòm, lạnh lùng của căn phòng chứa đầy thù hận. Sau một thoáng ngập ngừng, bà chuyển cây đèn sang tay trái, tay mặt lấy cái chìa khóa đút vào ổ khóa… Bà vặn nhẹ… Ổ khóa không chuyển động… Bà vặn mạnh hơn… Cạch! Ổ khoá bật ra. Bà đứng yên một lát, bàn tay đặt trên nắm cửa. Tự nhiên bà run lên vì lý do gì không rõ. Bà lẩm bẩm:

- Lão đã nói là lão sẽ trở về từ đáy mộ… Lão sẽ chờ…

Bà vặn nắm cửa, đẩy mạnh. Cái bản lề cũ kỹ rít lên phản đối trước khi cánh cửa bung ra… Một làn sóng hận thù từ trong phòng tràn ra phủ kín người bà.

Bà chậm chạp bước vào, đôi môi mím chặt. Giơ cao ngọn đèn dầu, bà quan sát mọi vật trong phòng. Đó là cái giường với tấm khăn trải giường nhăn nheo, nơi ông Tư thở hơi cuối cùng – hay không thể thở hơi cuối cùng? Đó là cái gối mà ông Tư gối đầu trước khi nhắm mắt. Mọi vật không hề thay đổi.

Bà Tư thoáng nhớ rằng cả thầy y tá lẫn ông Tám Tàng, những người cuối cùng đặt chân vào căn phòng này đều đã ra người thiên cổ. Kế bên đầu giường là một cái bàn nhỏ nơi vẫn còn cái ly mà bà pha thuốc độc cho ông Tư.

Bà lẩm bẩm:

- Lão đã nói là lão sẽ chờ…

Căn phòng thật ẩm thấp và bụi bặm. Bà Tư khép cửa lại, đặt ngọn đèn dầu lên cái bàn nhỏ bên cạnh cái ly rồi bước tới bên cửa sổ, mở toang cánh cửa. Một ngọn gió từ bên ngoài lùa vào, rít lên…

Ngọn đèn chợt lung linh vì gió tạo nên những bóng đen quái đản nhảy múa trên tường. Trên lưng ghế, chiếc khăn lông mà bà dùng đè cho ông Tư chết ngộp đã trở thành vàng khè, tuy bà vẫn nhìn thấy thật rõ một đốm đen ở chính giữa, đốm đen mà bà biết là những giọt nước rãi cuối cùng của ông Tư.

Bà bước tới giữa phòng, đôi mắt vẫn không rời khỏi đốm đen trên chiếc khăn lông. Rồi bà lập đi lập lại:
- Lão đã nói là lão sẽ trở về từ đáy mộ… Lão sẽ chờ…

Đột nhiên một cơn gió mạnh thổi ào qua khung cửa sổ. Ngọn đèn chao lên trước khi tắt ngấm.

Bóng tối bất ngờ khiến bà Tư hoảng hốt. Lần đầu tiên trong đời bà biết sợ! Bà liếc nhìn về phía cái giường, và chợt nhận thấy dường như có một người đang nằm, mặt quay về phía bà đưa tay vẫy vẫy. Bà run rẩy bước lui trước khi té ngồi xuống ghế. Một cơn gió mạnh thổi chiếc khăn lông bung lên chùm kín mặt bà Tư. Bà hoảng hốt giẫy giụa trong bóng tối và cảm thấy chiếc khăn lông như một con bạch tuộc với những cái vòi gớm ghiếc đang xiết chặt quanh cổ bà. Bà đưa hai tay lên cố kéo mạnh chiếc khăn lông ra trong khi bên tai bà, tiếng ông Tư vang lên mồn một: “Tao sẽ trở về từ đáy mộ… Tao sẽ chờ mày…” Sáng sớm hôm sau, người ta thấy bà Tư nằm chết trong căn “phòng của nội”. Quanh cổ bà là chiếc khăn lông vàng khè, chiếc khăn mà bà dùng hạ sát ông Tư.
Read more…

Hồn ma muốn khóc

19:39 |
Tình yêu của hai người gắn bó sâu đậm, D bị tai nạn, D chỉ biết đứng đằng sau nhìn người yêu chịu đau đớn. Rồi Lam cũng phải đi lấy chồng, D vừa vui vừa mừng. D rất muốn khóc nhưng hồn ma thì khóc thế nào được.

Hồn ma muốn khóc


Tôi và Lam chia tay rồi! Lam là một cô gái tốt, rất đẹp và rất dịu dàng, nhưng tôi vẫn chia tay, cho dù tôi thật sự không muốn.

Ngày thứ nhất: Lam không chịu dậy, lấy chăn trùm kín người, trong ký túc xá không ai dám an ủi cô ấy. Hôm nay Lam không ăn cơm, cũng không chịu đánh răng rửa mặt. Buổi tối, lúc đi ngủ, tôi nghe thấy Lam khóc vùi ở trong chăn. Lam đang dỗi hoặc đang vòi vĩnh một điều gì đó mà lúc này tôi không nhớ ra. Mà tôi và Lam đã chia tay rồi!

Ngày thứ hai: Hôm nay Lam đã chịu ăn cơm, là bạn cùng phòng bắt cô ấy ăn, mắt Lam đỏ ngầu. Tôi luôn nói cô ấy là một con ma thích khóc nhè.

Trông lúc này Lam không khác gì một bóng ma.

Ngày thứ ba: Hôm nay Lam mặc một bộ quần áo rất diêm dúa, đi vào một quán bar và uống rất nhiều rượu. Hơn nữa còn dùng ánh mắt hút hồn đảo quanh một lượt khiến rất nhiều người phải thốt lên: “Cô gái, cô rất đẹp”.
Read more…

Tổng hợp truyện ma hay nhất

19:37 |
Truyện ma là những câu truyên hay, rùng rợn khiến cho người đọc cảm thấy đôi chút sợ hãi, tuy nhiên chính điều đó là điểm thu hút người đọc.

Tổng hợp 6 truyện ma rùng rợn 


Chuyện 1:

Chuyện thế này, đến giờ mình vẫn ko thể tin nổi. Cậu bạn mình có đứ a em trai mất trong một cuộc ẩu đả của mấy thanh niên khi ăn cỗ cưới về. Gần một năm điều tra vụ án, hôm 20.4 vừa rồi tòa mới xử, kẻ cầm dao đâm chết cậu ấy bị tù chung thân về tội giết người. Thực ra, ngoài đâm chết cậu ấy, thằng kia còn đâm trọng thương mấy đứa nữa, nhưng lạ thay, tất cả bọn bị đâm kia đều không kiện thằng giết người tội cố ý gây thương tích (gây thương tích nặng chứ ko nhẹ đâu) rồi khi tòa xử, cũng ko phải ra tòa với tư cách người có liên quan hoặc nhân chứng.
Read more…

Cái chết của cô vũ nữ

06:27 |
Những truyện ma về cái chết bí ẩn hay những truyền thuyết có thật, rùng rợn bi đát của những người chứng kiến tận mắt. Truyện ma cái chết cô vũ nữ

Cái chết của cô vũ nữ


 Ông Phát Sanh gọi người quản gia tới hỏi lại lần nữa:
- Mọi việc chuẩn bị đã xong hết chưa?

Quản gia Bảy Thành tự tin đáp:

- Dạ bẩm ông, xong cả rồi.

- Vụ rước ban nhạc xong chưa?

- Dạ, chuyện rước dàn nhạc và các cô vũ nữ do cậu Hai lo, nhưng con biết chắc là đã xong hết rồi. Bởi lúc sáng cậu Hai gọi điện về nhờ con đưa xe lên đón mấy người đó. Con đã cho thằng Chín Sự đem xe đi, chắc chút nữa là về tới.

Ông Phát Sanh là người làm việc gì cũng cẩn thận, ông dặn lại:

- Tuy mọi việc đã coi như xong, nhưng để chắc ăn, mày coi lại lần nữa rồi có gì báo cho tao liền. Tao không muốn có một sơ suất nhỏ, bởi tối nay có tới gần chục người khách quan trọng, để họ phiền lòng là chẳng những tao mất mặt, mà cả công việc làm ăn của tao cũng tiêu đời luôn!

Chín Sự biết trong số khách mới có ông tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng, biện lý, ông cảnh sát trưởng, người hét ra lửa ở xứ này và nhiều quan chức khác. Ông Phát Sanh làm bữa tiệc mừng thọ cho mình lớn như thế này là có ý đồ, bởi nếu được sự hậu thuẫn của số quan chức kia, thì việc làm ăn của ông sẽ thuận buồm xuôi gió và lợi nhuận không biết cơ man nào mà kể cho hết!

- Thưa ông chủ, có khách muốn gặp ông.

Ông Phát Sanh cau mày:

- Khách nào vậy?

Người làm đáp:

- Dạ, một phụ nữ ăn mặc sang trọng, đi chiếc xe hơi đen đậu ngoài cổng.

Đúng ra ông không tiếp khách vào giờ này, nhưng nghe khách là nữ sang trọng, lại đi xe hơi, nên ông Phát Sanh bảo:

- Mời người ta vào phòng khách.

- Dạ, bà ấy đã đợi sẵn ở phòng khách rồi.

Ông Phát Sanh vừa bước ra phòng khách đã thấy một phụ nữ lạ, phục sức sang trọng, tỏ ra là một quý bà, đang ngồi nhìn ngắm khắp gian phòng.

- Xin lỗi, bà là…

Người phụ nữ vội đứng lên và rất lịch sự cúi chào:

- Kính chào ông chủ Phát Sanh. Xin tự giới thiệu, tôi là Anna Kiều, được ngài chánh án Robert Trần giới thiệu đến. Đại diện cho ông ấy để dự buổi tiệc hôm nay.

- Rất vinh dự cho chúng tôi, vậy xin mời bà ở đây chơi, bởi buổi tiệc đến bảy giờ tối nay mới bắt đầu. Hay là mời bà lên phòng trên lầu nghỉ, nhà cớ sẵn phòng cho khách.

Người phụ nữ rất tự nhiên:

- Thưa ông chủ Phát Sanh, tôi còn một số công việc phải làm, nên có lẽ tối nay đúng giờ tôi sẽ trở lại. Tuy nhiên, sở dĩ tôi ghé sớm là có một chút việc. Đúng hơn là có một món quà đặc biệt mà ngài chánh án gửi riêng cho ông, dặn phải đích thân tôi giao cho ông. Mong ông nhận cho!

Bà ta nói xong quay đằng sau phất tay ra dấu, người tài xế cùng một người nữa hình như đã đợi sẵn, nên vội khiêng một cái thùng giấy lớn vào.

Ngoài thùng có bao giấy và gắn ru-băng rất đẹp, đúng điệu là một gói quà, chỉ có điều là nó quá to, chẳng khác nào cái tủ lạnh.

Ông Phát Sanh hơi ngạc nhiên, nhưng không tiện hỏi, liền ra lệnh cho gia nhân:

- Bay đâu, nhận quà của bà đây, đem vào trong đợi một lát sẽ khui ra!

Bà ta đưa tay ngăn lại:

- Đây là quà đặc biệt dành riêng cho ông chủ, vậy phải để lúc ông vào phòng riêng và tự tay ông khui ra!

Ông Phát Sanh cười lớn:

- Chà, quà của quan chánh án có khác, nó đầy bí mật!

Bà Anna cười tươi:

- Như vậy mới gọi là quà quý hiếm chứ.

Nói xong, bà ta đứng lên ngay:

- Bây giờ xin kiếu ông chủ, đúng bảy giờ tôi sẽ trở lại.

Bà ta đưa tay ra bắt với vẻ sành điệu khiến ông Phát Sanh cũng phải nể nang. Khi bà ta đi rồi, ông buột miệng:

- Đúng là mẫu phụ nữ có tài giao tế!

- Phải chi ba có được bà đầm như bà này, giao cho bà ấy đi ngoại giao thì nhất trần đời!

Quay lại thấy thằng con cả nhà mình, ông Phát Sanh, điểm mặt anh ta:

- Cái miệng oang oang của mày mà lọt tới tai “bà chằn” má mày thì có mà cháy nhà!

Hai Sung cười tít mắt

truyen ma hay nhat

truyen ma

:

- Con chỉ nói đúng tim đen ba thôi mà! Vả lại, má con chỉ ru rú trong nhà, ba cũng phải kiếm một bà để thay mặt đi ngoại giao chứ!

Ông Phát Sanh nạt anh ta:

- Nín đi mày, thằng khỉ! Phải rồi, nếu gặp mày thì chắc mày quơ hết chứ chẳng chừa!

Hai Sung lại cười hô hố:

- Phải chi bà ta còn trẻ thì con xin ba nhường cho!

Anh ta nói xong thì định biến ra ngoài, ông Phát Sanh phải gọi giật lại:

- Vụ dàn nhạc và đám vũ nữ xong chưa?

- Thằng tài xế đang chở về. Có mấy con nhỏ ác chiến luôn, bảo đảm mấy cha quan chức sẽ híp con mắt, nhểu nước miếng ừng ực cho coi!

- Chừng nào đưa tụi nó về thì bảo tụi nó đưa vào nhà bên kia cho ở tạm, dọn cơm nước cho tụi nó ăn trước, nhớ đừng để cho má mày thấy và biết.

Hai Sung lắc đầu:

- Tiếp khách theo kiểu ba thì làm sao rước được đám này! Trên đường về con đã chiêu đãi cho cả bọn một bữa cơm trưa, hai cữ cà phê thuốc lá, và còn đưa trước cho mỗi đứa một ít để dằn túi nữa! Nếu không tụi nó đâu có chịu, bởi bỏ một đêm ở vũ trường tụi nó mất “sở hụi” biết bao nhiêu.

- Cậu Hai chịu chơi thì ráng móc tiền túi ra mà chi!

Hai Sung nheo mắt cười:

- Sao lại là tiền của con? Việc của ba thì ba phải chịu chứ! Con lấy tạm tiền thu nợ lúa được kha khá, nên con chi cũng bạo tay…

Ông Phát Sanh kêu lên:

- Trời ơi, mày xài hết tiền của tao rồi! Tiền đó…

Hai Sung thản nhiên:

- Thì trước sau gì cũng chi. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn mà!

Nói xong anh ta biến rất nhanh, để lại nỗi ấm ức của ông bố! Thằng con trời đánh này thật ra phá của ông gấp trăm lần hơn số đó, mà từ lâu nay ông nào có nói được.

Nói ra thì chính bà vợ ông cũng bảo:

- Thì cha nào con nấy mà.

7 giờ tối…

Các quan khách tới rất đúng giờ. Tiệc được bày ở sân vườn rộng trên nữa mẫu tây của ngôi nhà, đèn đuốc sáng choang, chẳng khác một ngày hội lớn!

Đón xong các quan khách chủ chốt, đáng lý ông Phát Sanh đã yên lòng, nhưng chẳng hiểu sao ông lại bồn chồn, như còn chờ đợi mong ngóng một ai đó… Cuối cùng ông cũng phải buột miệng:

- Sao bà ta chưa tới?

Thì ra ông đang ngóng đợi Anna Kiều!

Chợt quản gia Chín Sự hấp tấp chạy vào đưa ông một tấm danh thiếp:

- Thưa ông, có người gửi ông cái này.

Tấm danh thiếp ở mặt trước có dòng chữ: Anna Kiều – nguyên hoa hậu Sài thành. Còn mặt sau thì đầy chữ:

“Thành thật cáo lỗi cùng ông chủ,
“Do có việc đột ngột phải quay về Sài Gòn ngay, nên không dự buổi tiệc của ông được. Xin chúc ông sống thọ trăm tuổi, sức khỏe dồi dào! Cũng xin nhắc ông, nên mở món quà ra ngay thời khắc khai mạc buổi tiệc. Chúc ông hài lòng! Anna Kiều.”

Bị hụt hẫng, ông Phát Sanh vụt đứng dậy, bỏ bàn tiệc đang có các yếu nhân và đi thẳng vào nhà, tự mở cửa phòng riêng và không nhờ một ai vào phụ.

Ông cắt dây buộc bên ngoài cái thùng giấy. Lòng tự dưng hồi hộp…

Cái thùng giấy được mở bung ra. Có tất cả hai lớp thùng, nên ông ta phải cắt hai lần dây thì mới tới lớp trong cùng. Và…

- Trời ơi!

Lão ta bật ngửa ra sau, mồm há hốc và suýt đứng tim! Trước mặt ông ta, nằm gọn trong thùng là… xác chết của một cô gái!

Trong phòng không có ai, nên việc xảy ra chỉ một mình ông ta biết. Mà sự biết lúc ấy cũng chẳng có nghĩa gì, khi chỉ sau tiếng kêu không thành tiếng thì ông chủ Phát Sanh đã không còn biết gì nữa…

° ° °

Người đầu tiên phát hiện ra sự thể là quản gia Chín Sự. Số là do ông Phát Sanh vắng mặt khá lâu ở bàn tiệc, nên ngài tỉnh trưởng đã thắc mắc. Ông ta gọi quản gia lại và hỏi, Chín Sự lúng túng, nhưng nhờ kinh nghiệm nhiều năm phục vụ chủ mình, nên anh ta đã nói khéo rằng ông chủ bị đau bụng bất ngờ nên phải đi giải quyết…

Nói xong, Chín Sự vội đi tìm chủ và khi anh ta mở cửa phòng riêng thì gặp ông Phát Sanh nằm ngất trong đó! Anh ta vội đỡ chủ dậy mà chưa kịp nhìn vật trong cái thùng. Ông Phát Sanh nhờ vậy đã tỉnh lại. Ông ta bật dậy và hỏi ngay:

- Nó đâu rồi?

Chín Sợ ngạc nhiên:

- Thưa ông, ông hỏi ai ạ?

Nhìn thấy cái thùng còn đó, ông ta chồm lên và một lần nữa sửng sốt!

Nhưng lần này ông ta không ngất xỉu, mà trái lại đã kịp nhìn rõ mặt xác chết.

Một tiếng kêu thảng thốt:

- Kiều Mi!

Thì ra đó là một người quen của ông ta! Đúng hơn đó là một trong những người mà ông Phát Sanh đã quen biết… đã từng có quan hệ tình cảm!

Chín Sự lúc này mới chú ý tới thùng giấy, và anh điếng hồn khi nhận ra xác chết!

- Ai… ai vậy ông chủ?

Lần đầu tiên ông Phát Sanh hạ thấp giọng trước thuộc hạ của mình:

- Mày… mày đừng la lớn. Mày coi có cách nào…

Ông ta cố trấn tĩnh:

- Mày coi lại coi, có phải cô ta… chết thật rồi không?

Chín Sự hơi run, nhưng cũng không dám cãi, vội đưa tay lên mũi xác chết rồi hốt hoảng:

- Chết rồi!

- Mày… mày đừng nói cho ai biết! Mày ra ngoài và đóng chặt cửa lại…

Ông ta cùng ra với Sự và cửa phòng được khóa chặt lại, nhốt trong đó một bí mật mà chính ông Phát Sanh cũng không hiểu…

Buổi tiệc bên ngoài vẫn tiếp diễn…

Chỉ có điều là suốt trong buổi tiệc đó, chủ nhân như kẻ mất hồn. Ông ta tiếp khách mà đầu óc cứ để đâu đâu, thậm chí còn ăn nói không đầu không đuôi, cứ quên trước, quên sau… Đến đỗi mấy khách lớn phải nói riêng với nhau:

- Lão này chắc bị lẫn rồi, đâu còn minh mẫn như trước đây nữa!

Họ bàn với nhau một lúc, rồi cùng nháy mắt ra hiệu và rút hết trong lúc chưa đến hồi kết thúc. Cái màn hấp dẫn nhất là khiêu vũ với mấy chục vũ nữ xinh đẹp rước từ Sài Gòn về vẫn chưa bắt đầu…

Không ai biết chuyện gì đang xảy ra…

Ngay trong đêm đó, khi bữa tiệc vừa tan thì quản gia Chín Sự đã phải làm một việc mà bản thân anh ta không hề muốn: chôn cái xác ngay trong vườn nhà!

Do bị ông chủ nghiêm cấm không cho bất cứ ai ngoài anh ta biết chuyện, nên suốt hơn một giờ đồng hồ, chỉ bằng cây cuốc chim mà Chín Sự đã vừa đào huyệt vừa kéo cái xác ra, chôn luôn cả xác và cái thùng giấy lớn.

Vừa làm xong, do quá mệt, anh ta ngả lưng đại bên nấm mồ vừa chôn.

Nhưng chưa kịp thở lấy hơi thì Chín Sự đã suýt kêu lên, bởi có một người xuất hiện lù lù trước mặt anh ta, chẳng khác một hồn ma! Người ấy cất tiếng thanh trong nhưng có phần đanh đá:

- Chuyện ai làm nấy lo, sao anh lại cáng đáng việc này?

Đến lúc này Sự mới nhận ra người đứng sát bên mình là một phụ nữ ăn mặc sang trọng, mà dù trong ánh sáng lờ mờ, Sự vẫn nhận ra đó chính là bà khách ban chiều!

- Bà… bà…

Lời anh ta chưa trọn câu thì giọng nói sắc lạnh lại vang lên:

- Gọi chủ anh ra đây!

Giờ này mà gọi ông chủ ra quả là việc khó. Bởi sau tiệc thì lão Phát Sanh đã rút vào trong phòng riêng với bà vợ già và đố ai dám gọi. Anh ta lưỡng lự thì người kia quát:

- Mày có muốn tao la ầm lên để mọi người cùng biết là mày đang giết người rồi chôn xác phi tang không?

Chín Sự đành phải vừa bước lùi vừa lắp bắp nói:

- Để… để tôi kêu!

- Mày mà trốn luôn thì sẽ như cái xác này, nghe chưa!

Sự riu ríu chạy đi và làm đúng như lời. Anh ta phải gõ cửa nhè nhẹ mấy lượt thì bên trong mới có tiếng càu nhàu của bà chủ:

- Chuyện gì mà làm phiền vậy?

Chín Sự phải dùng cách hù dọa:

- Có trộm leo tường phía sau, chúng nó đông lắm, ông dậy lấy súng săn ra đối phó ngay đi ông!

Bà chủ cùng chạy ra với ông, nhưng Sự nhanh trí nói:

- Cướp có vũ khí, bà đừng ra mà nên ở trong phòng khóa cửa lại, để con với ông đi thôi!

Ông Phát Sanh tưởng cướp thật nên run rẩy:

- Mày… mày lấy súng… bắn nó, chứ tao ra làm chi?

Chín Sự phải nheo mắt mấy lượt, lão ta mới hơi hiểu và dè dặt bước theo ra ngoài với khẩu súng hai nòng trên tay. Ra khỏi nhà, Sự mới nói nhanh:

- Không có cướp, nhưng có người muốn gặp ông!

Lão Phát Sanh chưa kịp hỏi thêm thì đã ra tới chỗ chôn xác, lão vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi đến bước đi không vững:

- Mày… mày đưa tao ra đây chi vậy?

Lão định tháo lui, nhưng vừa khi ấy giọng người đàn bà đã cất lên:

- Sao bạc tình bạc nghĩa đến vậy hả ông chủ? Đến người tình chết mà cũng không được ông đến nhỏ cho vài giọt nước mắt nữa sao!

Vừa nghe giọng nói là ông Phát Sanh đã điếng hồn. Ông lắp bắp:

- Bà… bà là…

- Anna Kiều xin chào tái ngộ ông chủ! Sao, không muốn tiếp tôi hả?

Ông Phát Sanh líu cả lưỡi:

- Tôi… tôi không hề làm chuyện này… Tại sao cô… cô đem cái xác này…

Bấy giờ, giọng bà ta trở nên sắc lạnh hơn:

- Chối tội thì tôi, ông hay anh quản gia này đều có thể chối được! Nhưng cái xác này chết ở đâu, ai đem chôn nó và chôn chỗ nào? Bấy nhiêu đó ông trả lời trôi hay không?

- Tôi… tôi không…

Hất hàm về phía Chín Sự, bà ta ra lệnh:

- Hãy đào thêm cái huyệt nữa!

Chín Sự cuống lên:

- Thưa bà… đào chi nữa?

- Để cho ông chủ của anh! Ông ta không muốn nhận cái xác này thì phải chôn ông ta theo với nó, may ra ông ấy sẽ hiểu việc ông ấy đã làm và tội của ông ấy tới đâu! Nhanh lên!

Chín Sự đủ sức để chống lại mụ đàn bà yểu điệu kia, nhưng chẳng hiểu sao anh ta lại ngoan ngoãn nghe lời, mà còn cóng tay chân trước bà ta nữa!

- Đào nhanh lên, và chính anh xô ông ta xuống huyệt, chừng nào ông ta không chịu lên tiếng nhận là mình đã giết cô gái dưới mồ này!

- Dạ…

Chín Sự vừa đào đất, thỉnh thoảng lại liếc về phía ông chủ mình… Bỗng nghe ông ta lên tiếng:

- Ừ… tôi chịu…

- Chịu là chịu thế nào? Dám ra trước nhà chức trách mà nhận tội giết người không?

- Tôi… tôi đâu có giết Kiều Mi? Tôi chỉ…

Bấy giờ bà ta mới rít lên:

- Không cầm dao cầm súng giết, nhưng lấy con người ta có thai, rồi ép người ta phá thai, trong lúc cái thai đã năm tháng tuổi, như vậy còn hơn cả tội sát nhân nữa! Bởi chẳng phải chỉ giết một mạng người, mà có đến hai mạng cùng chết!

Lúc này ông Phát Sanh mới hốt hoảng:

- Có… có chuyện đó sao? Kiều Mi… cô ấy…

Người phụ nữ phá lên cười đắc ý:

- Cuối cùng thì ông cũng đã nhận ra người chết rồi! Kiều Mi, cái tên đẹp giống như người, đẹp đến khách làng chơi đều phải ngẩn ngơ, thèm muốn. Vậy mà chẳng một ai sở hữu được người đẹp, chỉ vì lão trọc phú Phát Sanh đã độc chiếm, đã dùng đồng tiền mua đứt cô ta! Nhưng sao dám chơi mà không dám nhận hậu quả? Sao lại nhẫn tâm xúi người ta phá thai khi cái thai đã thành người! Đến đỗi cô ấy phải vong mạng…

Mỗi lời nói của bà ta như hàng vạn mũi kim xuyên vào thịt da lão, khiến lão Phát Sanh run lên bần bật:

- Đừng nói… đừng nói nữa. Tôi… tôi biết… tôi có tội…

- Vậy hãy đền tội đi!

Lời bà ta vừa dứt thì chẳng còn thấy bóng dáng đâu! Lão Phát Sanh thay vì mừng thì lại càng run rẩy hơn:

- Tôi… tôi không…

Chín Sự thấy mụ kia đi rồi thì dừng tay, hỏi ông chủ:

- Bà ấy đi rồi sao ông không chạy đi?

Bấy giờ ông Phát Sanh mới chợt hoàn hồn, ông ta vừa định bước đi thì chợt có ai đó nói từ phía sau:

- Chờ em với chứ!

Nhìn lại không thấy ai chung quanh, ông Phát Sanh phát hoảng:

- Ai… ai vậy?

- Em lạnh lắm, sao để em nằm dưới này một mình? Xuống đây với em!

Chín Sự nghe rõ giọng nói đó vang lên từ dưới nấm mồ! Anh ta hốt hoảng nhảy lên khỏi hố huyệt đang đào và định bỏ chạy. Nhưng giọng nói kia lại cất lên:

- Khoan đã! Phải đẩy lão ta xuống rồi muốn đi đâu thì đi!

Lão Phát Sanh kêu lên:

- Kiều Mi!

Lão ta đã nhận ra giọng nói của người tình, nên càng sợ hãi hơn:

- Em… em đó sao, Kiều Mi? Em đừng…

Lão ta định bước lùi, nhưng chẳng hiểu sao lại luống cuống và ngã sấp người tới trước, gần rơi xuống cái hố huyệt Chín Sự đang đào, suýt nữa nhát cuốc của anh này bổ trúng vào đầu lão ta!

- Ông chủ! Ông đừng…

Chín Sự buông tay cuốc đỡ chủ mình dậy, nhưng vừa lúc đó anh ta đã nhận ra đang có một bàn tay chụp cánh tay lão ta ghì mạnh xuống lòng đất!

- Ông chủ!

Chín Sự chỉ kêu lên được mấy tiếng rồi người lảo đảo, mắt tối sầm lại…

° ° °

Bà vợ ông Phát Sanh tiếp người khách mà bà hoàn toàn chưa biết mặt.

Một cô gái còn trẻ, nhưng dáng vẻ tiều tụy và già trước tuổi. Cô ta ngập ngừng bước vào phòng khách trong khi bà chủ nhà đang ngồi trên bộ ghế trường kỷ.

- Thưa bà, cháu tới để đưa thư của bà Phán Thơ ở Cà Mau.

Nghe tới tên người bà con mà lâu ngày chưa gặp lại, bà Sanh mừng rỡ:

- Vậy sao? Cháu là gì của chị Phán?

- Dạ, cháu là… cháu kêu bằng mợ. Bà Phán Thơ là vợ của cậu cháu.

Cô ta đưa mộc phong thư dán kín, bà Phát Sanh tiếp nhận và quay ra sau gọi lớn:

- Con Tư Lài đâu, ra đọc thư cho bà coi.

Con nhỏ giúp việc Tư Lài là đứa có học trong đám tôi tớ, nên mọi việc liên quan tới chữ nghĩa của bà chủ nó đều là đứa đảm nhận. Cầm lấy phong thư còn dán kính nó đưa mắt nhìn chủ thì được cho phép:

- Xé ra coi nói gì ở trong đó?

Con Tư Lài xé ra và đọc lớn. Thì ra trong thư bà Phán Thơ giới thiệu cô gái tên Ngọc Diện với một đoạn nói rõ:

“… nó là cháu ruột của chồng tôi, có nghề làm thuốc rất giỏi, mà ở quê thì không có điều kiện để làm nghề. Vừa qua nghe người nhà của chồng tôi đi về nói có quen biết với chị, bảo rằng chị bị bệnh thấp khớp nặng, đi đứng khó khăn, nên tôi mới mạo muội gởi con Ngọc Diện này lên, nó sẽ ở bên chị, giúp theo dõi bệnh, điều trị thường xuyên… Thù lao, công cán thì nó không cần đâu, chỉ ở giúp thôi. Mai này nếu được, chị cứ coi nó như con cháu, xem được mối nào thì tính chuyện chồng con cho nó luôn cũng được. Con nhỏ mồ côi đáng thương lắm!”.

Việc trị bệnh phong thấp là gãi đúng chỗ ngứa của bà Phát Sanh. Bởi từ hơn ba năm nay, bà đã khổ sở bởi chứng bệnh này, thuốc thang thầy bà biết bao nhiêu rồi mà vẫn không khỏi. Tự dưng bà có cảm tình ngay với cô gái:

- Cháu biết trị bệnh sao không mở phòng mạch?

- Dạ, nhà cháu nghèo, nơi ở còn không có thì lấy đâu ra vốn liếng mở tiệm. Hơn nữa, cháu xưa nay chỉ chữa bệnh miễn phí. Giúp người chứ chưa ăn tiền ai.

Bà Phát Sanh càng mừng rỡ hơn:

- Đúng là tôi gặp được quý nhân rồi! Thôi được rồi, cháu cứ ở đây, coi như con cháu trong nhà. Ngoài việc trị bệnh cho thím, cháu không phải làm việc gì hết!

Cô gái mừng rơn:

- Dạ, cám ơn bà chủ. Con còn biết nấu ăn, may vá. Con sẽ phụ lo cơm nước cho ông bà. Mà nghe nói ông cũng bị chứng đau nhức nửa đầu nữa phải không?

Bà Sanh ngạc nhiên:

- Ủa, sao cháu biết?

- Dạ, cháu nghe mợ cháu nói.

- Ờ, chứng bệnh đó cũng làm cho ông ấy khó chịu lắm, lâu nay thầy ta thầy tây gì đủ thứ mà bệnh vẫn trơ trơ. Cháu mà trị được cho ông thì ông tôn làm sư phụ cho coi!

Chợt bà nhìn sắc diện cô gái và hơi yên tâm:

- Cháu không có nhan sắc mặn mà, chắc là được…

Cô gái không hiểu, hỏi lại:

- Bà nói vậy là sao?

Bà Phát Sanh muốn nói thẳng ra là bà mướn người trong nhà này đều lựa những người không có nhan sắc, hoặc người lớn tuổi, bởi từ ông cha cho tới thằng con trai, đều là những tay háo sắc!

Thấy bà có vẻ ngập ngừng, cô gái nói:

- Cháu mát tay lắm, trị bệnh cho ai là hết liền. Nhưng với một điều kiện, đã uống thuốc của cháu rồi thì không được uống bất cứ thuốc gì khác!

Bà Sanh chịu liền:

- Thím sợ thuốc lắm, chỉ cần uống một thứ thôi đã ngán, còn sức đâu mà uống cho nhiều! Mà thuốc bắc hả?

- Dạ không, của cháu là thuốc nam. Từ lá cây bông trái… nên rất dễ uống. Hơn nữa, cháu còn có cách trị bệnh mà không cần uống thuốc!

Nghe vậy, bà Phát Sanh reo lên:

- Có chuyện đó nữa sao? Trời ơi, đúng là Phật trời cử con nhỏ này tới giúp thím đây mà!

Bà ôm chầm lấy Ngọc Diện mà tưởng chừng như là con cháu ruột hay người thân thiết lâu đời! Bà bảo Tư Lài:

- Mày dẫn chị này ra chỗ dãy nhà khách, lấy căn phòng ở bìa ngoài cho nó ở. Nó là khách chứ không phải người làm trong nhà, nên tụi bay phải đối đãi như khách của tao vậy, nghe chưa!

Vừa đi, Tư Lài nói khẽ với khách:

- Chị là ngoại lệ đó, chứ trong nhà ít ai được như vậy lắm. Bà con của bà ấy dưới quê lên mà bà ấy còn cho ngủ ở nhà ngang dành cho bồi bếp!

Ngọc Diện chỉ cười không đáp.

Thế là từ một người hoàn toàn xa lạ, cô gái tên Ngọc Diện đã nghiễm nhiên trở thành một người trong nhà, lại càng lạ hơn nữa là chỉ sau một lần trị bệnh, bà Phát Sanh đã hết lời khen ngợi và tuyên bố thẳng với mọi người:

- Nó là con nuôi của tôi đó nghen!

Thời gian này, ông Phát Sanh đang nằm bệnh viện. Sau vụ xảy ra đêm đó thì ông ta phát bệnh và nằm liệt một chỗ luôn. Các bạn bè khuyên nên đưa lên Sài Gòn, cho vào nằm bệnh viện Grall của Pháp. Người ta không tìm được chứng bệnh chính thức của ông ta là gì, chỉ ghi nhận là ông ta bị chấn động thần kinh bởi một nguyên nhân nào đó chưa rõ…

Ông ta nằm bệnh viện được mấy ngày thì sốt ruột hỏi đứa gia nhân nuôi bệnh:

- Thằng Chín Sự đâu không thấy?

- Dạ, chẳng hiểu sao anh ấy phát điên, quậy phá nhiều chuyện nên bà chủ ra lệnh không cho ở trong nhà nữa. Bây giờ chẳng hiểu anh ấy ở đâu!

Ông Phát Sanh lo ngại:

- Có ai biết nó đi đâu thì bảo đi tìm nó, cho tiền nó trị bệnh rồi bảo nó về trại ruộng dưới Phong Điền mà ở, chờ tao hết bệnh về sẽ tính.

Ông đưa một số tiền kha khá cho thằng Hai Xê, bảo nó đi tìm Chín Sự ngay.

Điều lo ngay ngáy trong lòng ông ta lúc này là cái miệng của thằng quản gia. Nó mà bép xép thì tiêu đời! Cũng may là nó phát điên…

Qua một tuần điều trị, chứng hoảng loạn trong ông đã có phần thuyên giảm, nhưng chứng nhức nửa đầu thì hình như có phần tăng thêm. Cứ nửa đêm thì cơn đau lại đến và hành hạ ông đến sáng. Ông Phát Sanh đã báo cho bác sĩ Tây, nhưng họ cũng chỉ làm cho ông cắt cơn đau tạm thời thôi, sau đó mọi việc lại như cũ.

Bỗng một buổi tối, khi ông đang nằm trong phòng bệnh một mình thì có một người đứng lấp ló bên ngoài, sau đó nhẹ bước đi vào. Nhìn lên thấy người lạ, ông giật mình hỏi:

- Cô là ai mà vào đây? Đi lộn phòng phải không?

Cô gái trùm kín mặt bằng chiếc khăn choàng theo kiểu dân nhà quê, nhỏ nhẹ đáp:

- Cháu theo lệnh bà ở nhà đem thuốc vào cho ông. Chứng bệnh đau nửa đầu của ông mà không trị kịp thời thì đứt mạch máu não mà chết đó!

- Nhưng… cô là ai?

Cô gái không đáp, chỉ đặt lên bàn cạnh đầu nằm của bệnh nhân một chén thuốc còn nóng và quay ra ngay…

Ông Phát Sanh gọi giật ngược lại:

- Cô kia, làm sao tôi dám uống thuốc này khi cô không nói rõ cô là ai?

Cô gái không dừng lại, chỉ nói với:

- Không uống thì nội đêm nay ông sẽ bị hôn mê!

Ông Phát Sanh muốn đứng dậy, nhưng nửa bên đầu của ông lại đau nhói lên, lần này đau dữ dội, chưa từng bị như vậy!

Rồi từ phút đó, cơn đau cứ gia tăng, đau đến độ không tài nào chịu nổi, định lên tiếng gọi y tá, nhưng cũng không làm sao gọi được! Mà lạ thay, mỗi lần hít được mùi thuốc từ chén thuốc nóng thì cơn đau có vẻ dịu đi trong chốc lát.

Đến khi không còn chịu đựng nổi nữa, lúc này ông ta mới chụp chén thuốc và uống đại, thuốc chỉ vào miệng được phân nửa, còn nửa kia thì đổ ra ngoài. Tuy nhiên, chỉ trong vài chục giây thì… như thuốc tiên, cơn đau nửa đầu của ông biến mất!

Chưa tin đó là sự thật, ông Phát Sanh bật ngồi dậy rồi đưa tay sờ đầu. Trước đó một phút thì chỉ một cơn gió lùa qua, tóc lay động nhẹ cũng đủ làm cho ông đau buốt tới tận óc! Còn bây giờ, ông thử lùa tay vào tóc mà vẫn chẳng có cảm giác đau đớn nào!

Sáng hôm sau, lúc ông Phát Sanh còn đang ngủ thì Hai Xê vào tới. Anh ta báo tin:

- Chín Sự đột nhiên khỏi bệnh. Anh ta đã trở về nhà và được bà chủ cho làm việc lại! Hôm nay anh ta lên thăm ông!

Chín Sự vừa bước vào đã đưa cho ông bốn thang thuốc nam và nói:

- Của cô Ngọc Diện gửi cho ông, nói ông cứ uống hết bốn thang này thì ra viện được. Cô ấy nói hôm qua vào đây mà chưa kịp chào ông, chỉ sợ ông trách!

Ông Phát Sanh ngạc nhiên:

- Thì ra là con nhỏ đó! Mà nó là ai vậy?

- Là con gái nuôi của bà chủ!

- Con gái nuôi? Hồi nào đến giờ có nghe bà ấy nói tới đứa con gái nuôi nào đâu?

Chín Sự hạ giọng nói:

- Cô này lạ lắm ông chủ, cô ấy mới vào nhà mình ở có mấy ngày mà hầu như biết hết chuyện trong nhà. Kể cả chuyện cái xác chết nữa…

Vừa nghe tới đó, ông Sanh đã giật bắn người:

- Mày nói sao? Nó biết gì?

Chín Sự trấn an:

- Không có gì đâu. Nó chỉ nói là trong vườn nhà mình có oan hồn! Con hỏi nó tại sao nói vậy thì nói trả lời là nó có thể biết được chuyện quá khứ vị lai và rành chuyện âm dương… Chỉ vậy thôi chứ nó nào có biết chuyện gì khác!

Ông Phát Sanh cũng hạ thấp giọng, không muốn cho Hai Xê nghe:

- Mày đã san bằng nấm mộ đó chưa?

- Dạ xong rồi. Chẳng những san bằng mà con còn trồng liếp rau lên đó nữa. Bữa nay rau mọc xanh rì, đố ai biết bên dưới có gì!

Ông Sanh thở phào nhẹ nhõm:

- Tao cứ lo…

Chợt Hai Xê lấy trong túi ra tờ giấy nhỏ đưa:

- Có người gửi cho ông ở phòng y tá trực.

- Gì vậy?

Ông Phát Sanh vừa mở ra đã sững sờ:

- Trời ơi!

Chín Sự ngạc nhiên:

- Gì vậy ông?

Trong tờ giấy nhỏ đó chỉ có hai chữ mà vừa trông thấy ông Phát Sanh đã điếng hồn. Bởi đó là hai chữ “Kiều Mi” viết hoa.

- Mày… mày…

Ông lắp bắp đến líu cả lưỡi. Trong khi Chín Sự vẫn vô tư:

- Mọi việc xem ra ổn rồi ông. Chuyến này về con sẽ rước thầy yểm cho dứt nọc luôn! Con nghĩ có ai đó muốn phá ông nên mới đem… cái ấy về nhà…

Anh ta quay lại nhìn thấy Hai Xê thì vội nói:

- Mày bước ra ngoài để tao nói chuyện với ông chủ một chút.

Nhưng ông Phát Sanh không chú ý lời nói của Sự, giọng ông run run khi buông tờ giấy xuống. Chín Sự cầm tờ giấy lên, vô tình hỏi:

- Kiều Mi là ai vậy ông?

Ông Phát Sanh quay sang hỏi Hai Xê:

- Mày ra hỏi coi người gửi này là ai, gửi hồi nào?

Cô y tá lúc ấy vừa bước vào đã trả lời thay:

- Một cô gái rất đẹp xưng tên là Kiều Mi, nói có việc phải đi gấp nên chỉ gửi lại tên chứ không vào thăm ông được! Cô ấy nói chúc ông mau bình phục!

Ông Phát Sanh rụng rời tay chân, ông nói lắp bắp:

- Kiều… Kiều Mi, sao lại…

Ông ta nhìn sang Chín Sự, rồi nói như muốn khóc:

- Cô ta… là người mày đã chôn dưới mộ!

Chín Sự trợn tròn mắt, người anh ta toát mồ hôi lạnh và cũng lắp bắp nói:

- Sao… sao lại có chuyện này?

Hai chủ tớ còn đang xanh mặt, thất thần thì chợt có tiếng của bà Sanh từ ngoài cửa phòng bệnh:

- Nằm bệnh viện mà cũng tụ tập đông vui quá cở há.

Bà bước vào với Ngọc Diện đi kèm bên. Vừa trông thấy ông, bà đã nói liền:

- Sao cử người lên chăm sóc cho ông mà ông lại đuổi về?

Nhìn sang Ngọc Diện, ông chỉ ngờ ngợ về dáng vóc chứ không biết là ai.

Nghe vợ hỏi vậy, ông nói liền:

- Bà cử ai đâu mà nói vậy? Mấy bữa nay thằng Hai Xê đi về dưới, tôi ở một mình, nửa đêm đau muốn tắt thở luôn, phải chi có ai thì đỡ biết mấy.

- Vậy sao tối qua con nhỏ này vào ông không cho ở lại?

- Vào hồi nào?

Cô gái nhỏ nhẹ nói:

- Con đem thuốc vào cho ông, tính nói lệnh của bà bảo ở lại thì lúc đó con thấy hình như có ai trong phòng này, nên sợ quá con đi ra ngay chưa kịp nói gì!

- Lúc đó tôi đau gần chết, có ai trong phòng đâu?

Cô y tá buột miệng:

- Có lúc nữa khuya có một bà ăn mặc sang trọng đến đứng trước cửa phòng này rất lâu. Khi tôi ra hỏi thì bà ta vụt đi ngay, không nói mình là ai. Tôi cứ tưởng đó là người nhà của ông…

Ông Phát Sanh hốt hoảng:

- Lại mụ ta!

Bà Sanh vừa nghe nói đã chanh chua lên ngay:

- Thấy chưa, còn chối nữa thôi…

Cô y tá còn bồi thêm một câu:

- Cô gái hồi nãy hình như đi cùng với bà tới đây hồi khuya! Cô ta gửi mảnh giấy này rồi ra ngoài đường có chiếc xe đen của bà nọ chở đi liền!

Bà Sanh như phỏng nước sôi:

- Trời ơi, bệnh hoạn nằm bệnh viện gần chết tới nơi mà còn hẹn hò nữa nè trời!

Rồi bà đột ngột quay sang Chín Sự:

- Có phải mày dẫn mối cho ông ấy không? Cũng do mày hết, chính đêm lễ mừng thọ ông ấy, tao nghe nói là mày dẫn gái về hẹn ông ấy ở ngoài vườn, cho nên mày gạt tao là có cướp, để ông ấy ra gặp nó! Có phải con này không?

Trong lúc bất cập, lại bị hỏi dồn, Chín Sự vô tình để lộ ra điều cần giấu:

- Dạ, đâu có. Đêm đó con chỉ đào mộ chôn người thôi!

Câu nói của anh ta khiến bà Sanh kinh ngạc mà ông cũng điếng hồn:

- Mày… mày…

Bà quát lớn:

- Mày chôn cái gì? Chôn của để dành cho nó à?

- Dạ… dạ… đâu có… Chôn người!

- Trời ơi, mày hại tao rồi Sự ơi.

Tiếng gào lên là của ông Phát Sanh, còn bà thì run rẩy:

- Mày… mày nói chôn ai? Ai giết người mà chôn?

Thấy có cô y tá ở đó không tiện, bà yêu cầu cô ra ngoài, rồi nghiến răng:

- Ông và thằng này làm chuyện mờ ám gì, nói tôi nghe coi?

Chín Sự là người yếu bóng vía, nên chỉ mới dọa sơ sơ đã gần như nói hết ra:

- Dạ đâu có gì mờ ám. Chỉ bởi đêm đó ông và con bắt gặp một xác chết của ai đó để trong phòng, nên mới đem đi phi tang, sợ gặp rắc rối đến cò bót…

- Ai chết?

- Dạ… một cô gái!

- Chết ở đâu?

- Dạ… trong phòng đọc sách của ông!

Tất cả những lời khai của Sự như lời cáo trạng của tòa án phán xuống cho ông Phát Sanh, khiến ông ta cứng họng, chẳng làm sao nói được lời nào…

Phần bà Sanh thì sau khi nghe Sự nói xong, bà đứng dậy, nói như ra lệnh:

- Đi về!

Chín Sự lúng túng:

- Con… con còn phải…

- Mình đi về, còn ông ấy thì mặc kệ, cứ để ông ấy ở đây mà chờ gặp mấy con quỷ cái đó!

Bà ngoe nguẩy bỏ đi ra. Chín Sự còn đang chưa biết phải làm sao thì đã nghe bà quay lại hét lớn:

- Mày phải về mà đào mả đó lên? Bằng không thì chớ trách tao!

Ông Phát Sanh đành phải nói xuôi:

- Mày cứ về với bà ấy đi, rồi liệu mà làm…

Chính Sự bước ra thì đã thấy chiếc xe nhà đợi sẵn. Bà chủ ra lệnh:

- Chạy thẳng về nhà!

Phải mất hơn sáu tiếng đồng hồ họ mới về tới nơi. Việc đầu tiên là làm theo lệnh của bà chủ:

- Thằng Chín Sự đã đào mả chôn người, thì bây giờ chính mày phải đào đem nó lên và nói cho tao rõ nó là ai!

Chín Sự run rẩy:

- Đào lên thì con đào được. Nhưng nói đó là ai thì làm sao con biết được…

Trước sự chứng kiến của một mình bà ta, Chín Sự hì hục đào nấm mộ mới chôn chưa đầy một tháng lên. Anh ta hồi hộp chờ chứng kiến một hình ảnh ghê rợn, nhất là cái xác chỉ chôn bằng cái thùng giấy đơn sơ. Anh ta nói:

- Bà đứng xa xa một chút và lấy khăn che mũi lại, coi chừng mùi hôi thối dữ dội lắm!

Tuy cơn ghen tức làm cho bà lồng lộn lên, chứ thật sự bà ta đang lo sợ.

Nghe Sự nói thế, bà bảo:

- Khi nào đào tới đó thì cho tao biết…

Bà bước lùi mấy bước và chờ đợi…

Chín Sự lại hì hục đào… Lát sau, anh ta kêu khẽ:

- Tới rồi!

Cái thùng giấy vẫn còn nguyên, nhưng sao lạ quá, không hề có mùi hôi thối của xác chết? Chín Sự cố nín thở và dùng tay kéo nắp thùng giấy ra, anh ta chờ đợi nhìn thấy cái thây ma trương to lên! Nhưng…

- Sao lạ quá? Đâu rồi?

Trước mắt anh ta, cái thùng giấy trống không!

Bà Sanh nghe anh ta kêu như vậy cũng ngạc nhiên:

- Cái gì? Xác nó đâu?

Chín Sự đưa tay chỉ vào cái thùng giấy vừa nói:

- Mất rồi!

- Cái gì mất?

- Bà tới mà coi!

Bà Phát Sanh bây giờ mới dám rón rén bước tới. Bà nhìn chăm chú vào và ngạc nhiên hỏi:

- Nó đâu?

Sự buông thõng một câu rồi ngồi thừ ra:

- Biến mất rồi!

° ° °

Bỗng nhiên có tin ông Phát Sanh giết người rồi phi tang xác được tung ra làm chấn động dư luận! Ban đầu nhiều người không tin, bởi với một người giàu sang tột bậc, lại chưa từng có tai tiếng gì về những vụ lôi thôi, thì làm sao ông ta có thể mang tội giết người được! Vậy mà có bằng chứng!

Bằng chứng đó do một người tên là Anna Kiều tung ra. Mụ ta lúc này mới ra mặt là một trùm vũ trường. Làm chủ ba cái vũ trường lớn nhất ở Hồng Kông và Chợ Lớn, tuy đứng trong bóng tối kinh doanh, nhưng giới tài phiệt thì không ai là không biết. Bởi vậy khi báo chí đăng lời tố cáo của mụ ta nhắm vào trọc phú Phát Sanh thì dù là người tin tưởng lão trọc phú này cũng phải xét lại.

Người ta tự hỏi:

- Nếu vì tình thì ai cũng có thể hành động mà không làm chủ bản thân mình!

Mụ Anna Kiều đứng ra tố cáo ông Phát Sanh giết người yêu là cô vũ nữ Kiều Mi, một hoa khôi vũ trường làm việc dưới quyền của mụ. Bằng chứng mà mụ đưa ra những tấm hỉnh chụp cảnh Phát Sanh âu yếm với Kiều Mi trong vũ trường, trong phòng riêng và cả khi lão đang mở cái thùng giấy đựng thi hài Kiều Mi, và cảnh Phát Sanh chứng kiến lúc Chín Sự đào huyệt chôn xác cô vũ nữ hoa khôi kia!

Trước những bằng chứng như vậy, nên dẫu có quen biết nhiều, nhưng lão Phát Sanh vẫn bị bắt tạm giam dù lúc ấy lão vẫn còn nằm điều trị trong bệnh viện.

Hay tin, dù còn đang ấm ức chuyện chồng lăng nhăng mèo chuột, nhưng bà Sanh cũng cuống cuồng chạy lo. Những quan chức địa phương lúc đầu hứa hẹn giúp đỡ, nhưng sau đó có lẽ biết được đằng sau vụ này còn có bàn tay của một cấp cao hơn, nên họ từ từ lảng ra hết. Sau cùng, có người chỉ cho bà tới một nơi mà bà không ngờ tới, đó là lão chánh án Robert!

- Sao lại dính tới lão này?

Dù ngạc nhiên nhưng bà Sanh cũng nhờ người dẫn dắt, tiếp xúc được với lão này. Thật bất ngờ, trong cuộc nói chuyện, một phụ tá của lão ta đã đưa ra một đề nghị thẳng thừng:

- Đây là một vụ đại hình, ông Phát Sanh muốn thoát thì phải tốn kém lớn. Bà đồng ý?

Bà Sanh lúc này đã gần như suy sụp tinh thần, bà nói buông xuôi:

- Tốn bao nhiêu cũng được, miễn là lo cho chồng tôi khỏi tù tội. Ông cho giá đi.

Tay phụ tá nói rõ số tiền phải chi, mà vừa nghe bà Sanh đã sửng sốt:

- Trời đi. Ông có biết là số tiền đó tôi bán cả sản nghiệp chưa chắc đã có đủ.

Ông ta vẫn thản nhiên:

- Tùy bà thôi.

Cuộc thảo luận chấm dứt ngang. Bà Sanh hốt hoảng:

- Xin ông nói với ngài Robert châm chước cho vợ chồng tôi nhờ!

Ông ta vẫn lạnh lùng:

- Phải suy nghĩ lại là bà chứ không phải chúng tôi. Bà quyết định sớm thì còn kịp, bằng để ra tòa xử công khai thì lúc đó có một chục ông Robert cũng không cứu nổi!

Bà Phát Sanh đành phải chấp nhận. Hẹn sau khi có bản án, tất nhiên chồng bà được trắng án, thì sẽ giao tiền. Rời chỗ tiếp xúc bước ra, bà Sanh vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngọc Diện đã đứng đợi bên ngoài. Việc này là chuyện riêng, bà đã bí mật đi thương thảo, vậy tại sao cô gái này biết được? Bà ngập ngừng hỏi:

- Sao con biết má ở đây?

Ngọc Diện cười tươi:

- Chẳng những biết mà con còn biết rõ là má đang bị người ta ép để lấy tài sản nữa!

Bà giật mình:

- Sao con biết?

- Biết nên mới đợi ở đây để nhắc má rằng, cái bằng chứng quan trọng nhất là xác người bị hại, tức cô vũ nữ Kiều Mi, đã không có dưới mồ, thì lấy gì họ kết án được mà má lo?

Lời nhắc nhở này khiến cho bà Sanh chợt nhớ! Thì ra do quá sợ trước các bằng chứng và dư luận, cho nên mấy hôm nay bà quên bẳng chuyện đào mộ không thấy xác của cô vũ nữ! Bà run giọng nói:

- Con nhắc má mới nhớ. Trời ơi, chút nữa là nguy rồi! Vậy… vậy mình làm cách nào đây?

- Má cứ phản cung, yêu cầu giám định pháp y, lúc đó đương nhiên người ta sẽ cho khai quật tử thi lên, và…

Bà Sanh reo lên mừng rỡ:

- Có vậy mà má cũng không biết!

Ba ngày sau…

Trong lúc cuộc khai quật tử thi chưa tiến hành thì thật bất ngờ, tại vũ trường Paradise có sự xuất hiện của một người mà vừa trông thấy cô, thiên hạ đã sửng sốt, suýt đứng tim!

- Kiều Mi!

Vũ nữ Kiều Mi vẫn lộng lẫy như ngày nào, cô bước lên sân khấu, nơi ban nhạc đang đệm đàn, dõng dạc tuyên bố:

- Sau mấy ngày lánh mặt, nay Kiều Mi tái ngộ, xin gửi lời chào quý vị thân hữu!

Mọi người ồ lên kinh ngạc, rồi sau đó họ xúm lại tiếp xúc với cô nàng.

Tuy nhiên quản lý vũ trường đã ngăn lại, tuyên bố ai muốn nhảy với Kiều Mi thì phải mua tích-kê. Nhờ vậy mà chỉ trong khoảnh khắc, số tích-kê bán ra dành cho người muốn được nhảy với Kiều Mi đã vượt qua con số cao ngất, mà dù cho có nhảy liền ba đêm cô vũ nữ hoa khôi này cũng không thể nhảy hết với số lượng khách!

Trong khi đó, nguồn tin lạ lùng truyền tới tai người điều hành trong bóng tối dịch vụ vũ trường là mụ Anna Kiều! Mụ ta vừa nghe tin đã sững sờ:

- Làm sao có chuyện đó được? Chính tao đã… tao đã cho nó uống thuốc phá thai và… mạng vong rồi, làm sao sống lại được?

Tay côn đồ Ba Búa, người giúp chủ mình thực hiện các hành động bảo kê, đã vội lên tiếng:

- Chị để em tới coi ra sao đã. Có thể có ai muốn phá công việc của mình!

Mụ Anna Kiều dặn nhỏ:

- Dù con nào đó giả dạng thì cũng bắt ngay nó về đây cho tao! Bây giờ tao nhớ ra rồi, mới đây cái tin xác con Kiều Mi chôn trong vườn nhà lão Phát Sanh không cánh mà bay, chắc là có liên quan tới vụ này!

Ba Búa tự tin:

- Em đã làm đúng theo lời chị, mướn thợ ảnh rình chụp hết mọi việc xảy ra, nên dù cho có phi tang được xác thì cũng còn có ảnh, làm sao chúng thoát được!

Mụ Anna giục:

- Nhưng phải tới coi đứa nào dám tự nhận là Kiều Mi đã!

Ba Búa đi ngay. Hắn ta là bảo kê của vũ trường nên sự xuất hiện của hắn khiến đám đàn em bâu lại báo cáo:

- Lạ quá anh Ba, con nhỏ Kiều Mi sao lại xuất hiện khi có tin là nó đã chết rồi?

Ba Búa vẹt đám đàn em xong thẳng vào sàn nhảy. Lúc đó Kiều Mi đang nhảy với một đại gia, bị Ba Búa thô bạo nắm tay kéo ra. Kiều Mi không phản ứng, chỉ nhỏ nhẹ nói:

- Làm gì dữ vậy anh Ba?

Ba Búa quát lên khi đẩy cô nàng vào phòng riêng:

- Mày nói đi, mày là ai?

Kiều Mi cười giòn:

- Lâu ngày không gặp, tưởng Ba Búa có khôn ra chút đỉnh, nào ngờ vẫn chỉ là tên côn đồ, đầu bã đậu! Mày không nhìn thấy cô nương của mày đây sao mà còn hỏi? Tao là ai hả, tao là… má mày!

Vừa nói cô nàng thẳng tay tát mấy cái liền, khiến cho Ba Búa lảo đảo!

Trong đời hắn có lẽ đây là lần đầu tiên hắn bị một người đánh, mà người đó lại là con vũ nữ thường khi vẫn sợ oai của hắn như sợ cọp.

- Mày… mày…

Hắn lồng lên, định giáng cho cô nàng mấy cái tát, nhưng sao tay hắn nặng như đeo chì, không tài nào cất lên được!

Trong khi ấy Kiều Mi thản nhiên bước ra cửa phòng, nói với lại:

- Muốn yên thân thì để tao yên! Sớm muộn gì cũng tới phiên mày thôi, thằng khốn!

Cô nàng đi thẳng ra sàn nhảy, tiếp tục cuộc vui và xem như chẳng có chuyện gì xảy ra! Tên Ba Búa sau khi hoàn hồn, tự dưng hắn co vòi, lẳng lặng rời khỏi vũ trường và… đi luôn chứ không trở lại báo cáo cho mụ Anna!

Chờ hơn một tiếng đồng hồ mà chưa thấy hắn về, mụ Kiều sốt ruột bảo tài xế Tư:

- Mày lấy xe đưa tao tới vũ trường Paradise.

Tới nơi, mụ ta không khéo léo ẩn mặt nữa, mà công khai đến quầy, vừa ra lệnh cho tài-pán Linh Nga:

- Mày kêu con nhỏ xưng là Kiều Mi tới đây. Bảo nó vào phòng quản lý, tao chờ ở đó!

Mụ ta không phải chờ lâu, chỉ vài phút sau thì Kiều Mi bước vào. Nhưng cô ta không vào một mình, mà bên cạnh còn có mấy người nữa. Trong số người này, có hai người mà vừa trông thấy mụ Anna đã giật mình:

- Sao mấy người này vào đây?

Người thứ nhất là ông cò cảnh sát đô thành, gọi là cò Sĩ, còn người kia là phóng viên Anh Quốc của tờ nhật báo bán chạy nhất thời ấy, báo Diễn Đàn. Cả hai đều lên tiếng:

- Chúng tôi được cô Kiều Mi mời tới để chứng kiến một màn vui!

Kiều Mi lên tiếng trước:

- Thế nào, bà chủ còn tính giở trò gì nữa đây? Các trò ác của bà chưa đủ sao?

Biết nếu để cô ta nàng nói trước thì sẽ lôi thôi, nên mụ Anna nói một hơi:

- Cô là ai mà dám giả dạng Kiều Mi? Cô nên nhớ Kiều Mi đã chết rồi…

Nhưng lời nói của mụ đã bị chặn ngang bởi giọng đanh thép của Kiều Mi:

- Chết do bàn tay độc ác của bà chứ gì! Chết bởi gói thuốc bà nói là dưỡng thai mà thật ra đó là thuốc phá thai! Bà cho tôi uống thuốc phá thai trong lúc cái thai đã hơn năm tháng, và… tôi chết để cho bà thực hiện ý đồ vu oan cho ông Phát Sanh, người mà bà muốn chiếm đoạt tài sản!

Đúng ra với miệng lưỡi của một trùm kinh doanh vũ trường, mụ ta thừa sức cãi lại, nhưng chẳng hiểu sao lại lặng im nghe tiếp những lời tố cáo nữa của Kiều Mi:

- Sau khi giết tôi chết, bà đã mướn Ba Búa đưa tôi về nhà ông Phát Sanh, bắt ông ta phải chịu hàm oan! Tội nghiệp cho người đàn ông đó, ông ta có tính hảo ngọt, là tác giả bào thai trong bụng tôi, nhưng tôi không hận ông ta, bởi từ đầu ông ta đã chu cấp cho tôi đầy đủ, rồi khi thấy xác tôi, ông ta cũng cho mai táng đàng hoàng, chứ không bỏ mặc! Sao, những lời tôi nói có đúng không?

Sau một hồi im lặng, mụ Anna đáp thật nhỏ, nhưng mọi người cũng nghe được:

- Phải, tôi nhận.

Ông cò Sĩ quay sang phóng viên Quốc:

- Anh cũng đã nghe rồi đó. Chỉ cần thu thập thêm vài chi tiết nữa thì chúng tôi đã đủ bằng chứng để truy tố bà này rồi!

Quốc cũng nói:

- Giờ thì chúng tôi mới hiểu, nhân đây chúng tôi có lời xin lỗi cô Kiều Mi, nhất là rồi đây chúng tôi sẽ đăng lời xin lỗi ông Phát Sanh.

Ông cò Sĩ quay sang hỏi Kiều Mi:

- Cô có thể nói rõ về nguyên do mà cô không chết, mặc dù đã uống nhằm thuốc và đã bị chôn xuống mộ rồi?

- Số trời cả các ông ạ. Tôi sống được là do… nợ duyên của tôi với người tôi yêu chưa dứt. Nhất là vì đứa con trong bụng tôi…

Cò Sỹ ngạc nhiên:

- Cô nói đã mang thai hơn năm tháng, mà sao…

Kiều Mi cười:

- Mà sao cái bụng tôi nhỏ xíu chứ gì? Thưa với ông cò, khi bị ép uống thuốc, đúng ra thuốc đó đã làm cho chẳng những tôi chết, mà bào thai trong bụng cũng phải chết theo! Nhưng kỳ lạ thay, nhờ cái thai quá lớn, quá khỏe, nó vùng vẫy, nó chòi đạp mạnh quá, khiến cho tôi nôn ra gần hết số thuốc phá thai kia, và… nhờ vậy mà tôi sống! Khi bị chôn, do anh chàng chôn tôi quá sợ, chỉ chôn sơ sài, lại không có hòm gỗ, nên sau nửa giờ là tôi đã moi đất chui lên được!

Những lời nói xác thực đã thuyết phục được hai người nghe quan trọng.

Họ ghi nhận và trước khi ra về còn nói:

- Chúng tôi sẽ cho công luận biết sự thật, còn bây giờ để cho bà Anna đây có thì giờ sám hối tội lỗi, tôi tạm để cho bà tại ngoại, khi nào cần thiết chúng tôi sẽ mời bà.

Khi họ ra về hết, mụ Anna vẫn còn ngồi lại một mình. Nửa giờ sau, khi mụ ta định bước ra thì một người xuất hiện khiến mụ bực mình:

- Sao bảo mày đi lo vụ con Kiều Mi mày lại biến mất? Rồi bây giờ tới đây làm gì khi tao đã bị lộ tẩy rồi!

Ba Búa trông có vẻ thảm não:

- Em báo cho bà hay, em phải bỏ trốn thôi!

Mụ Anna hốt hoảng:

- Mày mà trốn thì tao sẽ nhận án một mình sao, không được!

Ba Búa lạnh lùng nói:

- Mọi chuyện do bà gây ra thì bây giờ bà phải một mình gánh chịu thôi!

Nói xong, anh ta còn lấy trong túi ra một bịch giấy. Đặt trước mặt mụ, anh ta nói:

- Đây là thang thuốc độc của bà đặt mua để đề phòng con Kiều Mi chưa chết thì cho uống thêm. Nay không còn dùng nữa thì tôi trả lại cho bà để… bà có dùng thì dùng! Đây, cả địa chỉ bà thầy chuyên phá thai nữa, bà giữ lấy!

Anh ta bỏ đi nhanh khiến cho mụ Anna có muốn gọi lại cũng không còn kịp nữa.

Sắc mặt đầy phấn son của mụ giờ đây cũng không che nổi sự nhợt nhạt vì biến sắc, cho nên trông mụ ta rất thảm hại…

Khi mụ ta bước qua sàn nhảy để ra về thì nhìn thấy Kiều Mi vẫn đang nhảy nhót tưng bừng. Cô nàng trông thấy và nheo mắt với mụ, như cố tình chọc tức! Mụ ta vẫn còn cái máu ác trong người, nên trợn mắt nghiến răng:

- Tao mà ăn tươi nuốt sống được mày lúc này tao sẽ nuốt ngay! Đồ… đồ…

Tự nhiên mụ cảm thấy cổ họng mình có chất nhờn tràn lên, rồi không ngăn được nó trào ra khóe miệng: Máu!

° ° °

Bà Sanh quá bất ngờ khi thấy Ngọc Diện tay ôm một đứa trẻ sơ sinh từ ngoài bước vào. Bà trố mắt:

- Con ai vậy?

Ngọc Diện với thái độ bất thường, đang nhìn thẳng vào bà, giọng rõ ràng:

- Nó là con của tôi. Nó sống được nhờ tôi uống thuốc phá thai!

- Diện, mày…

Bà Phát Sanh nghĩ đứa con nuôi của mình bị tâm thần:

- Mày ăn nhằm thứ gì mà kỳ vậy Ngọc Diện?

Giọng cô nàng vẫn bình tĩnh:

- Con tỉnh táo đây bà. Hôm nay con muốn nói ra một sự thật, mà có lẽ nghe xong bà sẽ ngạc nhiên lắm. Con chỉ xin bà nghĩ tới công chữa hết bệnh cho bà và ông mà tha cho những gì con phạm phải…

Lời cô ta càng nói càng bí hiểm, nên bà Sanh gắt lên:

- Có gì con nói đại đi, lòng vòng hoài!

Ngọc Diện đặt đứa bé xuống, vừa nhìn nó và hỏi:

- Bà coi nó có giống con không?

Liếc nhìn sang đứa bé, bà nói đại:

- Giống.

- Còn giống ai nữa?

Bà Sanh nói đại lần nữa:

- Không lẽ nó giống tao!

Không ngờ Ngọc Diện cười to và nói:

- Giống bà thì không, nhưng nó… giống ông chủ!

Câu nói này một lần nữa khiến bà Sanh giật mình, bà nhìn sững đứa trẻ và thảng thốt kêu lên:

- Nó… nó giống thật!

Giống nhất là cái mũi lân và hai dái tai dài, trông chẳng khác ông Phát Sanh chút nào!

- Sao… sao lại như vậy?

Cô nàng lạnh lùng nói:

- Bởi nó là giọt máu của ông thì phải giống cha nó chứ sao!

- Kìa, con Diện…

Bà đứng dậy nhìn vào đứa bé lần nữa, rồi hỏi lớn:

- Có phải ai đó bảo mày ẵm đứa nhỏ này về nằm vạ đây không?

Giọng của Diện vẫn đều đều:

- Nó là con của ông thì giao lại cho ông nuôi, đó là điều hợp lý.

Bà Sanh thét lên:

- Mẹ nó đâu?

Vẫn giọng bình thản:

- Là con đây. Bà nhĩn kỹ con coi.

Bà Sanh ngẩng lên nhìn và bà hốt hoảng khi thấy trước mắt mặt mình giờ đây không phải là Ngọc Diện nữa, mà là… một cô gái khác!

- Bà ngạc nhiên cũng phải, bởi bà chưa một lần gặp tôi! Xin tự giới thiệu, tôi là… Kiều Mi, người tình của ông Phát Sanh!

Nếu như thường khi thì bà Sanh đã gầm lên, nhào tới cấu xé kẻ trước mặt mình. Nhưng bây giờ bà lại đứng bất động, mặt tái mét!

- Bà đừng ghen, cũng đừng làm ầm ĩ. Bởi tôi tuy có lỗi là giành chồng với bà, nhưng tôi lại có hai công lớn: Công thứ nhất là sinh cho ông nhà một đứa trẻ kháu khỉnh, ngoan hiền, chính đứa bé này về sau sẽ nối dõi tông đường, thừa kế xứng đáng cho dòng họ này, chứ không phải là thằng anh cả trác táng, phá của Hai Sung đâu! Công thứ hai là đã cứu cho tài sản nhà này không bị mất về tay mụ Anna Kiều. Bà nhớ vụ ông bị vu cáo vừa rồi không, ai đã cứu nhà này?

- Tôi… tôi…

- Chắc bà nghe kể lại rồi, chính nhờ sự xuất hiện của tôi đã làm đảo lộn hết mọi mưu mô của bọn người xấu, hóa giải được chuyện ông Phát Sanh giết người chôn xác ở ngoài vườn…

- Chuyện đó là âm mưu của con Anna Kiều?

- Âm mưu thì có, nhưng với bằng chứng là cái xác trong vườn, thử hỏi làm sao ông nhà thoát tội?

Bà Sanh lớn tiếng:

- Nhưng tôi đã đào mồ lên rồi, không có xác nào dưới đó! Và bằng chứng là cô vẫn còn sống nhăn ra đây, lấy gì buộc tội chồng tôi chứ!

Kiều Mi cười gằn:

- Bà vẫn tự tin quá đáng. Vậy bây giờ bà có dám ra xem ngôi mộ lần nữa không?

Bà Sanh phát bực lên:

- Tôi không rảnh!

Nhưng Kiều Mi đã đứng lên và nói như ra lệnh:

- Đi ra xem!

Tự dưng bà Sanh ngoan ngoãn bước theo. Đến nơi, đã thấy nấm mộ đất đã được đào lên sẵn, chỉ có cái thùng giấy là còn đậy nắp.

Kiều Mi chỉ tay và nói:

- Bà có muốn xem cái thi thể trong thùng không?

Bà Sanh hơi khựng lại, đứng im. Bất ngờ, Kiều Mi đá chân một cái, nắp thùng giấy bật tung ra, và… trong đó có một thi thể phụ nữ!

Và còn bất ngờ hơn khi bà Sanh nhìn kỹ và la lên:

- Con Ngọc Diện!

Người nằm chết trong thùng đúng là Ngọc Diện! Giọng của Kiều Mi vang lên:

- Ngọc Diện cũng chính là tôi. Tôi là Ngọc Diện. Và xin nói ngay để bà biết, tôi thật sự đã chết rồi, chết đúng là do uống thuốc phá thai. Nhưng có điều là khi chết hồn phách tôi không tiêu diêu được bởi cái bào thai chưa tới số. Tôi phải sanh cho được đứa con, gửi nó lại cho bà nuôi giùm, bởi dẫu sao nó cũng là giọt máu của chồng bà! Vừa qua, cám cảnh ông đã giúp tôi nhiều khi sống, cho nên tôi đã hiện về và giải oan cho ông, cứu nhà bà không bị phá sản. Bây giờ nhiệm vụ tôi đã xong, tôi xin kiếu!

Dứt lời, cô ta thoắt một cái đã biến mất! Nhìn lại thì trong thùng giấy cũng chẳng còn xác Ngọc Diện.

- Cô… cô…

Bà Phát Sanh đứng im như bị trời trồng…
Read more…